|
Dương Hà(25.2.1934 - 20.8.2018) | Hà Mai Anh(..1905 - 20.8.1975) | Nguyễn Văn Khánh(.0.1922 - 20.8.1976) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Từ đó mồ ai rặt cỏ vàng
(Chết)
Từ đó là lúc nào vậy? Người ta hẹn nhau qua những màu xanh. Người ta nhớ nhau trong những lời ca vu vơ của con họa mi. Người ta nằm mộng thấy một ngôi sao tròn như đôi môi ngại ngùng bằng tiếng “nếu…”. Nếu con họa mi đừng ca mãi trên cành dương này, thì người nằm mộng chắc thấy mình còn biết chờ đợi vì một ước hẹn nào đó. Nếu lữ khách không buồn dây dưa, vì ven trời bao giờ cũng lạnh và ráo, thì hạt cát trên chiếc giày chắc không ngủ quên trong quán trọ. Bây giờ là buổi sáng hay buổi chiều, mà đất này sao giá buốt? Chỉ có:
Dăm người tuổi tác qua thăm viếng
Một buổi rồi quên mất độ đường.
(Chết)
Bây giờ người nằm mộng cũng quên mình nằm mộng, có phải từ đó tóc trắng kết thành cỏ vàng để hẹn với ly khách?
Mây thu đầu núi, gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm.
(Tống biệt hành) [*]
Từ khi tóc trắng kết thành cỏ vàng để hẹn với ly khách, bao nhiêu hào khí đều bốc lên trong những hơi thở hương nồng, nhẹ như cơn gió thoảng lên trăng, như bóng chiều lạnh lùng đổ xuống trong âm thầm. Người khách này có bao giờ biết kể chuyện? Kể xong một câu chuyện rồi bước đi lững thững. Góp lại những dấu chân làm thành một câu chuyện. Trong câu chuyện, lời như hư không. Người vì tha thiết mà ở lại, ta vì tha thiết mà ra đi. Người đi thực?
Người đi? Ừ nhỉ! Người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay.
(Tống Biệt Hành)
Người đi thực. Nghe như hăng hái lắm, nhưng sao lại có vẻ dần dà? Đi lững thững như vậy, sao lại đi vì hẹn ước? Không, có hẹn. Hẹn gì thế? Nơi ven trời là sự im lặng. Người đứng đây từ giã, nhưng ở phương xa kia, ai mường tượng nó sẽ là gì. Ở đây chưa là mùa thu, nhưng đầu núi kia là mây thu. Ở đây có đôi mắt đẫm ướt của em nhỏ ngây thơ, nhưng ở ngoài xa nơi ven trời, ly khách nghe muốn khóc mà không khóc. Chiếc lá rơi quá nhẹ, nhưng mặt đất lại bỗng quá nặng nề. Thà là gì cũng được, nhưng nếu người đi thực? Một người ra đi cúi đầu chào những người ở lại bao nhiêu là tiếng “nhưng… nhưng” mấp máy đầu môi: Thà đừng đi, hay không ở lại, như chiếc lá, như hạt bụi, như hơi rượu, nhưng rồi cũng chia tay. Đây là buổi chia tay:
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ, sen nở tốt,
Một chị, hai chị cũng như sen.
Khuyên nốt em trai giòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa mùa thu tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay.
Tôi muốn tặng ông một bài thơ, nhưng trông ông có vẻ lạnh lùng. Đi, gặp gió hay không gió, người ta cũng thấy lạnh. Nhưng gởi theo gì được, khi đi với kẻ lạnh lùng. Tôi cũng đi, từ lúc còn quá nhỏ; ba tôi tiễn chân bằng một cái bạt tai. Trên mười năm rồi, tôi chưa nghĩ ra là đã từng có hẹn điều gì không; chưa lần nào trở về để hỏi ba tôi xem tôi có hẹn gì không. Tôi nhớ, có lần tôi gởi thơ về thăm. Em gái tôi đọc thơ mà khóc. Thế này thì bao giờ anh mới ghé về thăm nhà một chuyến. Khi em đã đi lấy chồng rồi anh mới về, bấy giờ ai mang khăn cho anh phủi bụi ? Ai may cho anh áo quần mới? Bây giờ em tôi đi lấy chồng thực. Không biết có ai làm bài thơ nào gởi nó hay không. Ông Thâm Tâm chết khi tôi mới ba tuổi và em gái tôi được một tuổi. Thoáng như có ai chép vài câu thơ của ông tặng nó; duyên gặp gỡ của người chết và người sống cũng kỳ. Ông hình như chỉ làm thơ để tiễn mình và tiễn người. Lối tiễn của ông như đứng xa bờ mà nhìn xuống những dòng nước chảy:
Tiếng xe trong vớt bụi hồng
Nàng đi thuở ấy, nhưng trong khói mờ.
Ông tự tiễn mình cũng trong lối cách xa như thế:
Đưa người ta không đưa sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Người ta nghe ra những tiếng nói mơ hồ của một cái nhìn lạnh nhạt, trong cái nhạt của hoàng hôn, một thứ buồn lơ đễnh thấp thoáng bên song cửa, một tâm hồn đang mở ra hai phương hướng. Tiết nhịp của đoạn thơ buông lơi chậm chạp, như mái tóc buông xuôi lây lất theo cung bậc của tiếng đàn. Âm vận của đoạn thơ lại càng nghe ra như âm hưởng ngạt ngào phảng phất trên mười đầu ngón tay.
Cũng trong cách điệu ấy, khi ông tiễn người, lại nghe như cái ngọt ngào, pha mặn của những giọt mưa từ mái tóc qua đầu môi:
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi.
(Gởi T.T. Kh.)
Đầu hôm sửa soạn để đi, thấy mình như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Em gái trao cho một chiếc khăn tay, hỏi bao giờ anh trở về. Bao giờ trở về ? Trên đỉnh núi, một con chim đang đốt tổ để bay đi, còn nơi nào để về lại hay không?
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Mộng lớn và chí lớn, chim nhạn chim hồng rét mướt bay. Vuốt cọp chân voi còn lận đận. Người đi thực. Con chim hồng đã đốt tổ, ngọn lửa đã bốc cháy trên đỉnh núi. Chỉ còn lại tiếng gió trong hư không và những đám mây trắng đuổi theo. Chắc ông cũng nhờ một lời hẹn không thành lời của em nhỏ: khi nào những đám mây trắng là đà vắt ngang qua dòng sông, anh nhớ ghé thăm nhà một chuyến. Ông có thấy gì nơi những chiếc lá đẫm sương sớm? Nốt ruồi buồn thiên cổ.
(Nội dung trên được TVPV sưu tầm và đánh máy lại từ Tuần báo Khởi Hành, số 58, thứ 5 ngày 18/06/1970)
TUẦN BÁO KHỞI HÀNH (1969-1973),
Chủ nhiệm & chủ bút: Anh Việt Trần Văn Trọng; Thư ký tòa soạn: Viên Linh
[*] Bài Tống biệt hành có chỗ lại bỏ đoạn cuối này.
Ba mươi mốt tuổi, vào một ngày cuối tháng năm, hay đầu tháng sáu năm 1948, Thâm Tâm đã bỏ mạng trong một cơn oanh tạc bên kia Sông Đuống. Người thi sĩ chết trẻ đó, tiền chiến, có lẽ là người thi sĩ duy nhất chết không mồ mả. Đinh Hùng sau này có viết, không biết cái giờ phút cuối cùng của ông nó ra sao, và không hiểu ông được chôn cất như thế nào. Chiến tranh, chiến tranh ở V.N. một phần tư thế kỷ nay đã đưa đi những tên tuổi đang thành, những kiếp bút chưa tận, những thuyền văn giữa giòng.
Ba mươi mốt tuổi, Thâm Tâm chưa hoàn tất một khuôn dáng nhất định, với một ít truyện dài đăng báo, một vài vở kịch chưa diễn, một tập thơ chưa hề được xuất bản. Rải rác. Cái ông còn để lại rải rác đây đó trên một số báo chí xuất bản hồi ông ngoài hai mươi tuổi. Rải rác, những câu thơ, những bài hành. Ông chết, hơi thở cuối cùng tan trong gió sông, trong khói nổ, và tác phẩm còn tản mạn nơi những trang giấy rời, những người bạn thiết. Đó là một điển hình ở tiền chiến, mà sau này, vài chục năm sau cái chết của ông, văn thơ Việt Nam còn tiếp tục đánh mất những trường hợp như thế. Chắc chắn đó không phải là những trường hợp hiếm hoi. Một bàn tay đếm không đủ những người văn nghệ đã vĩnh viễn ra đi trong khói lửa.
Theo nhà văn Vũ Bằng, Thâm Tâm không được học hành đến nơi đến chốn, ông tự học, và ngoài những học hành giáo khoa, ông còn học người xưa trong những bộ sách lúc nào cũng kè kè bên mình, ở thành phố hay trong kháng chiến: những bộ Tam Quốc Chí, Thủy Hử… Cũng như phần đông thanh niên VN khác, Thâm Tâm dở dang chuyện học, và lỡ làng kiếp sống. Đó cũng lại là một mặt tác hại khác của chiến tranh. Chưa hai mươi tuổi đã phải mưu sinh, cắm củi trên những bìa sách và vừa hai mươi tuổi đã già dặn, cái già có thể hình dung thấy trên Tuổi Trẻ Việt Nam, và chỉ là Tuổi Trẻ Việt Nam. Cái già hai mươi tuổi va chạm ngoài đời, cái già với thê nhi quá sớm, cái già với trác táng hối hả hay chán chường. Thâm Tâm, người thanh niên có đủ mọi hệ lụy, người cầm bút có đủ thứ bệnh, lúc tuổi vừa qua hai mươi. Và cũng chính trong thời gian đó, ông ôm ấp một trưởng thành khác trong tuổi già của thanh niên, một sinh lực khác cho một đời sống khác sau này, là đời sống của Thơ Văn Thâm Tâm.
Tuổi ấy, ông còn thao thức vì tiếng súng kháng chiến vọng về. Và ngày mai tôi phải đi, mai này tôi phải đi, đó là những lời ông đã nhắc đi nhắc lại trong một số bài thơ. Ông đã đi, góp cái thân thể nhỏ nhoi, thêm cái cánh tay gầy guộc cho kháng chiến. Cái sức lực suy nhược ấy trong cộng đồng chẳng là gì, nhưng biến thành Thơ, thành Hành, đó là hào khí của những bài thơ, bài hành nổi tiếng nhất trong những bài thơ bài hành Việt Nam, về ngọn lửa đấu tranh, về tâm huyết trai trẻ.
Chiến tranh, trong những năm sau này, như bây giờ, cũng đang góp cho Văn Nghệ Việt Nam những tác phẩm trong khói lửa, phong phú về mặt hiện thực đời sống; đang phát hiện những mỏ quặng, chắc chắn sẽ dựng từ đó những tác phẩm văn nghệ giàu thịnh, cũng đã có những nhà thơ mệnh yểu trong bom đạn, giờ này chưa được nói đến đúng mức, nhưng không ai mong như thế cả. Không ai mong cái dở dang, cái thiếu hụt, những dở dang thiếu hụt rất thiệt thòi cho chúng ta, cũng như cho ngày mai.
Những cái chết ấy phải được nhìn ngắm mãi mãi như những hủy hoại khốc liệt cho Văn Nghệ.
(Nội dung trên được TVPV sưu tầm và đánh máy lại từ Tuần báo Khởi hành, số 57, thứ 5 ngày 01/6/1970)
Nhà thơ Thâm Tâm
(1917 - 18.8.1950)
Thâm Tâm (1917–1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, là một nhà thơ và nhà viết kịch tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương), trong một gia đình nhà giáo nền nếp. Tuổi thơ của ông gắn liền với việc học tiểu học tại Hà Nội, nơi khơi nguồn cho niềm say mê nghệ thuật sau này.
Từ năm 1938, Thâm Tâm bắt đầu vẽ tranh để mưu sinh, nhưng chính văn chương mới là lĩnh vực đưa ông đến với công chúng. Những năm 1940, ông hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực báo chí và văn học, với các sáng tác đăng tải thường xuyên trên các tờ báo và tạp chí uy tín như Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm, và Truyền bá Quốc ngữ…
Mặc dù thử sức ở nhiều thể loại, song thơ vẫn là địa hạt mà Thâm Tâm thành công và để lại dấu ấn sâu đậm nhất. Thơ ông đa thanh điệu: khi da diết buồn bã, khi trầm hùng bi tráng, lúc lại hân hoan reo vui. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là bài thơ “Tống biệt hành“, với phong cách kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, hào khí ngất trời, trở thành một tượng đài trong dòng thơ tiền chiến.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Thâm Tâm tích cực tham gia phong trào Văn hóa Cứu quốc. Ông từng là biên tập viên trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945–1946), sau đó gia nhập quân đội, giữ vai trò thư ký tòa soạn của báo Vệ quốc quân.
Ngày 18 tháng 8 năm 1950, ông đột ngột qua đời trong một chuyến công tác tại chiến dịch Biên giới, khi mới 33 tuổi. Thi hài ông được đồng đội và nhân dân địa phương an táng tại bản Pò Noa, xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.
Sinh thời, Thâm Tâm chưa kịp xuất bản tập thơ nào. Phải đến năm 1988, một tuyển tập mang tên “Thơ Thâm Tâm” mới được in ấn và giới thiệu với độc giả, tập hợp những tác phẩm xuất sắc của ông.
Ngoài “Tống biệt hành”, ông còn được biết đến với ba bài thơ tình nổi tiếng: “Gửi T.T.Kh.”, “Màu máu Tygôn” và “Dang dở” — được viết vào năm 1940, được cho là gửi đến nữ thi sĩ bí ẩn T.T.Kh.. Trong các bài thơ này, Thâm Tâm tự nhận mình là người tình cũ của T.T.Kh., và có nhiều giả thuyết cho rằng chính ông cũng có thể là T.T.Kh.. Tuy nhiên, cho đến nay, danh tính thật sự của người ký tên T.T.Kh. vẫn là một bí ẩn chưa có lời giải.
- Tiễn Thâm Tâm Tuệ Sỹ Tưởng niệm
- Bùi Giáng - Thi ca và Tư tưởng Tuệ Sỹ Khảo luận
- Định Hướng Tương Lai Với Thế Hệ Tăng Sĩ Trẻ Tuệ Sỹ Thuyết giảng
- Lục bát Viên Linh Tuệ Sỹ Nhận định
- Tiễn Thâm Tâm (Tuệ Sỹ)
- Thân phận trí thức trong xã hội cộng sản (Đọc “Tuỳ Tưởng Lục” của Ba Kim) (Vũ Thư Hiên)
- Tuyên bố của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam về Giải Văn Việt lần thứ Ba (Văn Đoàn Độc Lập)
- Phê Bình Văn Học Hôm Nay: Phê Phán Nhiều, Sáng Tạo Ít (Vũ Tú Nam)
- Hà Minh Tuân: Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
(Lê Xuân Quang)
- Trần Đĩnh - Đèn Cù, Số Phận Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản (Diễn Đàn Thế Kỷ)
- Nghi Án 60 Năm (Trần Gia Phụng)
- Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn: Quang Dũng, ... (Lý Hồng Xuân)
- Thụy Khuê với Nhân Văn Giai Phẩm (Hồ Trường An)
- Ghi (1954 - 1960) (Trần Dần)
- Thụy An (1916-1989) (Thụy Khuê)
Về Kinh Bắc (Hoàng Cầm)
Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt (Lưu Quang Vũ)
Đêm Giữa Ban Ngày (Vũ Thư Hiên)
Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất (Nguyễn Khải)
Chuyện Kể Năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)
Hậu Chuyện Kể Năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn)
Ba Người Khác (Tô Hoài)
Đèn Cù - I (Trần Đĩnh)
Đèn Cù - II (Trần Đĩnh)
Thời Của Thánh Thần (Hoàng Minh Tường)
Trần Đức Thảo - Những Lời Trăng Trối
(Tri Vũ - Phan NGọc Khuê)
Chế độ kiểm duyệt sách báo tại Việt Nam
(Nguyễn Hưng Quốc)
Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm (Thuỵ Khuê)
Thụy Khuê và Nhân Văn Giai Phẩm (VietNam Film Club)
Phim tài liệu (VietNam Film Club, 2013):
Tập I: Nhân Văn Giai Phẩm
Tập II: Cải Cách Ruộng Đất
• Tiễn Thâm Tâm (Tuệ Sỹ)
• Về Truyện Ngắn Của Lê Mai (Đặng Xuân Xuyến)
• Hoa Mimosa (Quang Già Cơ)
• Đỗ Ngọc Yến và Nhật Báo Người Việt (Phan Thanh Tâm)
• Đọc "Một Thời Oan Trái" của Phan Lạc Tiếp (Vũ Thất)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |