|
Đỗ Khánh Hoan(5.8.1934 - 3.10.2023) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
Nhà thơ Thâm Tâm
(1917-18.8.1950)
Thơ làm theo thể hành, như Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, là thể khẩu khi khích động, gần với hịch. Đây là bài tráng ca thời đại có một không hai trong thi ca Việt Nam thời Tiền Chiến. Những bài hịch dành cho quân sĩ, những bài hành dành cho lãng tử, kẻ sĩ, dẫu không phải anh hùng. Bài hành còn là thể thơ hợp với những kẻ sa cơ thất chí, ca khúc của túy ngọa bất phùng thời.
Vợ con thí tất cho thiên hạ
Yêu rất ban ngày, ghét rất đêm
(Thâm Tâm, Can Trường Hành, 1944)
Thâm Tâm là một trong tam anh thời Tiền Chiến, bên cạnh Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. Họ là ba người bạn thân nhau nhất. Nếu nhóm Tự Lực Văn Đoàn chuyên chở vào văn học thời đó những ảnh hưởng Tây phương chói chang, trong âm thanh xinh xịch của ô-tô, tàu hỏa, thì Thâm Tâm và hai bạn sống với không khí hào sảng của cổ phong, không vác kiếm đi hành hiệp nhưng đến với đời bằng ngòi bút; khổ công lập thân bằng văn chương, lui tới với nhau bằng chữ nghĩa. Tình đôi lứa quấn quít trong Xuân Diệu, tình bằng hữu bát ngát trong Thâm Tâm.
Bài Tống Biệt Hành là bài thơ về tình bạn và tình bạn thời đại có một không hai trong Thi Ca Việt Nam thời Tiền Chiến: trong tình bạn ấy, gia đình bị bỏ lại bên ngoài. Trong bài thơ, cái phong khí tâm huyết của trai thời thế, cái ngôn ngữ khẳng khái của người ngang dọc, thật hiếm hoi, đã thấy hiện lên bập bùng ngọn lửa từ một bó đuốc, thứ lửa khơi dậy giữa đồng, trong những cuộc đời vọng theo những mộng tưởng bôn ba:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
– Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không.
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước:
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay:
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
1940
Bài này Thâm Tâm làm trong tiệc rượu để tặng một người bạn đi kháng chiến. Bữa tiệc do người bạn khoản đãi, có mời thêm hai người khác của nhóm tam anh, là Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. Trong cuốn “Thâm Tâm và T.T.KH,” (Hà Nội, 1991) tác giả Hoài Việt viết như sau, theo lời kể lại của người đãi tiệc: “Ngày ra đi, bác có mời Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính cùng uống rượu chia tay. Buổi đó, ba nhà thơ đều có làm thơ tiễn bác... Bài Tống Biệt Hành chính là do Thâm Tâm viết để tặng bác.”
Cuộc tiễn đưa không diễn ra nơi một bờ sông, mà lại có tiếng sóng ở trong lòng, cho nên bờ sông ấy chỉ có, chỉ hiện lên giữa bốn người bạn quanh bàn rượu: con sông Dịch, nơi Kinh Kha biệt Yên Đan vào Tần mưu việc lớn. Chia tay hôm nay nhưng lòng sống với Sử cũ. Cuộc phân ly không phải giữa hai người tình, đây là cuộc ly biệt gia đình. Người trai trong nhà dứt áo ra đi, bỏ lại những người đàn bà thương nhớ nhất: người mẹ, các chị, và em gái. Mẹ âm thầm không nói. Chị khuyên nhủ đôi lời. Em gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay. Thế mà anh ta đi thực. Anh ta lo nghĩ lâu rồi, anh ta buồn từ chiều hôm trước, không phải anh ta mới nhất quyết vào sáng hôm nay...
"Vọng Nhân Hành” là một bài khác của Thâm Tâm nói rõ hơn nữa về tình bạn, và tình bạn thời đại.
Mấy người trai tráng gặp nhau, mỗi người một chí, người nào cũng muốn "làm một cái gì” cho cuộc đời, cho đại sự. Thơ Thâm Tâm, trong dòng cảm xúc này, gần với những điển hình “giang hồ khí cốt” của các anh hùng Lương Sơn Bạc, những giấc mộng lấp biển vá trời của thời Chiến Thuốc xưa
VỌNG NHÂN HÀNH
Thăng Long đất lớn chi tung hoành
Bàng bạc gương hồ ánh mắt xanh
Một lứa chung tình từ tứ chiếng
Hội nhau vầy một tiệc quần anh.
Mày gươm nét mác chữ nhân già
Hàm bạnh hình đồi, lưng cỗi đa
Tay yếu dạng cùng tay mạnh dắt
Chưa ngất men trời hả rượu cha.
Rau đất cá sông gào chẳng đủ
Nổ bùng giữa tiệc trận phong ba
Rằng "Đương gió bụi thì tơi tả
Thiên hạ phải dùng thơ chúng ta!”
Thơ ngâm giở giọng, thời chưa thuận
Tan tiệc quần anh, người nuốt giận
Chim nhạn, chim hồng rét mướt bay
Vuốt cọp, chân voi còn lận đận.
Thằng thí cho nhàm sức võ sinh
Thằng bó văn chương đôi gối hận
Thằng thơ trói buộc, thằng giã quê
Thằng phấn son nhơ, chửa một về!
Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch
Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề."
Ngoài phố mưa bay xuân bốc rượu
Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê
- Ới ơi bạn tác ngoài trôi giạt
Chẳng đọc thơ ta tất cũng về
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy, 1944)
Thơ làm theo thể hành, là thể khẩu khí khích động, gần với hịch. Hịch dành cho quân sĩ, hành dành cho lãng tử, tráng sĩ anh hùng. Nhận định về bài Tống Biệt Hành, hai ông Hoài Thanh Hoài Chân viết: “Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi gân guốc. Không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại,” (tr.190) Hai bài thơ trên làm nên Thâm Tâm, người thi sĩ có giọng thơ hành hiệp mặc dầu cuộc sống của ông không cho thấy điều đó, nhưng thơ ông cho thấy điều đó:
Rầm trời chớp giật mưa mau,
Lửa đèn chấp chới, khói tàu mù u
Bốn phương đây bạn đó thù
Hiệu còi xoáy lộng bản đồ năm châu.
–A, cơn thảo muội bắt đầu
Tuổi xanh theo gió ngâm câu dặm dài...
(Thâm Tâm, Tráng Ca, 1944)
Còn gì rõ ràng hơn? Thơ ông không nhiều, song niềm thao thức về sự vận động của thời đại hiện ra rất rõ. Thâm Tâm đã lên đường tham gia kháng chiến rất tích cực. Tích cực hơn là người ta biết. Vì chết sớm, thơ ông đứng lại ở ngưỡng cửa Tiền Chiến, ngoại trừ bài Chiều Mưa Đường Số 5, bài thơ đầu tiên của ông làm trong giai đoạn kháng chiến.
Chiều mưa đường số năm
Đôi mắt sao đăm đăm
Chứa cả trời mây nặng
Miền Việt Bắc xa xăm.
Đây là miền ông tới để ngã xuống. Nếu ông không chết vì sốt rét ngã nước năm 1950, hẳn những năm sau ông cũng có thể cứa mạch máu như Trần Dần, làm báo Trăm Hoa cùng Nguyễn Bính, bị tù tội trấn áp như Hữu Loan, Quang Dũng, Hoàng Cầm, hay cũng như Trần Độ, chắc như Trần Độ, người đã cùng Thâm Tâm ngồi trên bàn chủ tọa một Đại hội Văn nghệ khoảng 1950 - bị khai trừ khỏi Đảng,... Xin ra báo, xin trở về với những lý tưởng hồi cầm bút vào đời.
Sinh ta, cha ném bút rồi
Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân.
Nuôi ta, mẹ héo từng năm,
Vắt bầu sửa cạn tê chân máu gầy.
Dạy ta, ba bầy ông thầy
Gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi
Nhà ta cầm đợ tay người,
Kép bông đâu áo, ngọt bùi đâu cơm?
Chông gai đổi dại làm khôn
Ba vòng mòng sếu liệng tròn lại bay.
Bông hoa chu giáp vần xoay
Cành vàng non nửa đài gầy tả tơi.
Chữ nhân sáng rực sao trời
(Thâm Tâm, Trảng Ca)
Bông hoa chu giáp là 60 năm. Sau 60 năm, chữ nhân lại sáng rực trời. (Mày gươm nét mác chữ “nhân già.”)
Ba mươi ba tuổi, vào một ngày cuối năm âm lịch, xem ra là năm Canh Dần, Thâm Tâm từ trần sau một cơn sốt nóng râm ran trong khi tham dự chiến dịch Thu Đông.
Khi còn sinh thời, năm 1958, nhà thơ Đinh Hùng có viết một bài ngắn về Thâm Tâm, đã đăng lại trên Thời Tập ở Việt Nam. Bài đó viết rằng Thâm Tâm đã bị một chiếc máy bay khu trục của Pháp bắn thiệt mạng khi ông đang đứng chờ đò bên bờ sông Đuống. Cũng trên số báo ấy tôi viết bài Những Tin Cuối Mùa, và ra hải ngoại, trên Văn Nghệ Tiền Phong năm 1978, tôi có viết bài Mùa Xuân Đọc Thơ Thâm Tâm, đều dựa vào cái tin Đinh Hùng đưa ra. Chi tiết còn đúng là cho tới lúc đó, năm 1978, thơ của Thâm Tâm chưa được in thành sách.
“Ba mươi ba tuổi, với một ít truyện dài đăng báo, một vài vở kịch chưa diễn, một tập thơ chưa hề được xuất bản dù vậy khuôn mặt văn chương của Thâm Tâm đã là một khuôn mặt hiển lộ. Rải rác cái ông còn để lại đây đó trên một số báo chí xuất bản hồi ông mới ngoài hai mươi tuổi. Rải rác, những câu thơ; những bài hành. Ông chết tác phẩm còn tản mạn nơi những trang giấy rời những người bạn thiết. Đó là một điển hình ở tiền chiến, mà vài chục năm sau cái chết của ông, văn thơ Việt Nam còn tiếp tục đánh mất những trường hợp như thế. Chắc chắn đó không phải là những trường hợp hiếm hoi. Một bàn tay đếm không đủ những người văn nghệ đã vĩnh viễn ra đi trong khói lửa.” (Thời Tập).
Cách đây vài tháng, sau khi về thăm nhà ở Saigon, chị bạn Hồ Liễu khi trở lại quận Cam có mang cho tôi cuốn “Thâm Tâm và T.T.KH” của Hoài Việt. Hoài Việt là một tác giả trẻ, phóng viên tờ Vệ Quốc Quân. Lúc ấy Thâm Tâm là Thư ký Tòa Soạn, ngồi nhà cắt đặt công việc cho các biên tập viên, trình bày tờ báo, lại vẽ cả tranh cho tờ báo. Đó là giai đoạn kháng chiến, người đi kháng chiến coi cuộc kháng chiến là việc cứu nước đuổi thực dân xâm lược Pháp. Đó là thời rực rỡ của những thơ văn thắm thiết tình yêu nước, của Lòng Trai Thế hệ, thời của những đoàn quân không mọc tóc, những đồi tím hoa sim, những bên kia sông đuống, những nhà tôi, những tha la xóm đạo, những bài hành phương nam... Thay vì ngồi tòa soạn, lần này Thâm Tâm lại đi. Đó là chuyến đi cuối cùng của tác giả Tống Biệt Hành.
Hoài Việt kể:
“Và chúng tôi đi. Tới Cao Bằng, bỗng một hôm anh kêu mệt. Anh sốt, nằm ở một căn nhà sàn, gần biên giới... Tôi cũng tưởng anh chỉ sốt bình thường một hai ngày rồi qua khỏi. Đến một buổi chiều, tôi được cử xuống đơn vị. Trước khi đi, tôi vào ngồi với anh một lát. Tôi nắm tay anh thấy rất nóng. Mắt anh vàng hơn ngày thường. Anh bảo tôi đưa anh sang một chỗ nằm khác cho thoáng hơn. Tôi ôm lấy lưng anh, dắt đi. Anh vừa run lẩy bẩy vừa khẽ bảo:
– Mình thấy trong người thế nào ấy. Cậu đi khỏe nhé.
Tôi không thể ngờ đó là câu cuối cùng của anh nói với tôi. Ở đơn vị được một tuần, một hôm bỗng Thôi Hữu gặp tôi, báo tin là Thâm Tâm đã mất. ” (tr.19).
Trong tập Văn Học I, nhà xuất bản Tác Phẩm Mới in tại Hà Nội vào năm 1985, Từ Bích Hoàng viết:
“... dọc đường đi lên biên giới (thu 1950), khi tới Quảng Uyên thì Thâm Tâm bị sốt cao, anh em trong đoàn phải gửi anh lại... Anh được đưa vào ở một nhà sàn tại Nà Pò và được một chú liên lạc viên đêm ngày chăm sóc chu đáo. Tuy ốm nặng nhưng anh không kêu than và cũng không dối dăng lại gì khi mất. Anh được chôn cất luôn tại bản Nà Pò. Chú liên lạc, sau khi anh mất, đã xin được bà con dân bản một mảnh vải trắng làm khăn tang và chỉ duy nhất đó là người để tang cho Thâm Tâm (trang 140). Tính ra hôm đó là ngày 18.8.1950.”
Theo nhiều tài liệu, Thâm Tâm tự học và ngoài những học hành giáo khoa, ông còn học người xưa bằng những bộ sách lúc nào cũng kè kè bên mình, ở thành phố hay trong kháng chiến: những bộ Tam Quốc Chí, Thủy Hử... Cũng như phần đông thanh niên Việt Nam khác, Thâm Tâm dở dang chuyện học và lỡ làng kiếp sống. Đó cũng lại là một mặt tác hại của chiến tranh. Chưa hai mươi tuổi đã phải mưu sinh, cắm cúi trên những lòng sách và vừa hai mươi tuổi đã già dặn, cái già có thể hình dung thấy trên tuổi trẻ Việt Nam, và chỉ là Tuổi Trẻ Việt Nam. Cái già hai mươi tuổi va chạm ngoài đời, cái già với thê nhi quá sớm, cái già với hối hả hay chán chường. Thâm Tâm, người thanh niên có đủ ý thức, người cầm bút có đủ thứ bệnh, lúc tuổi vừa qua hai mươi. Và cũng chính trong thời gian đó, ông ôm ấp một trưởng thành khác trong tuổi già của thanh niên, một sinh lực khác cho một đời sống khác sau này, là đời sống của Thơ Thâm Tâm.
Tuổi ấy ông còn thao thức vì một tiếng gọi xa xôi vọng về. Và “ngày mai tôi phải đi, mai này tôi phải đi,” đó là những lời ông đã nhắc đi nhắc lại trong một số bài thơ. Năm 1945 ông đã đi, góp cái thân thể nhỏ nhoi, thêm cánh tay gầy guộc cho kháng chiến. Nhưng ý thức hệ kháng chiến không để lại gì trong thơ Thâm Tâm. Những gì ông để lại là những gì đã viết trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, giai đoạn từ 1937 tới khoảng 1944. Hào khí trong thơ Thám Tâm có trước giai đoạn kháng chiến. Cái sức lực suy nhược ấy không cất nổi gánh nặng ở đời, nhưng biến thành Thơ, thành Hành, trở thành hào khi của những bài thơ, bài hành nổi tiếng nhất trong những bài thơ bài hành Việt Nam, về tâm huyết trai trẻ của một nước đang sống trong thời bị trị, mặc dù xung quanh tràn ngập những sáng tác lãng mạn, không khí lãnh mạn, của một nền thi ca lãng mạn và tượng trưng, với những Xuân Diêu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương.
Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917, tại Hải Dương, Bắc phần. Năm 18 tuổi ông bước vào làng văn với công việc trình bày bìa sách bìa báo cho nhà xuất bản Mai Lĩnh, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Trước đó, và có thể ngay lúc đó, gia đình sống bằng nghề đóng sách. Có lúc vẽ tranh đem bán bên hồ Hoàn Kiếm. Những năm Nhật vào giải giới Pháp, ông đi Sơn Tây học nghề làm đồ gốm, và vẽ đồ gốm. Ông hẳn có học chữ nho. Ông ký tên Thâm Tâm bằng chữ hán.
Bài thơ đầu tiên của ông in trên tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Ngoài thơ, Thậm Tâm còn viết kịch và truyện dài. Ông đã có 6 truyện dài in ra, là Tiếng Hát Mùa Xuân, Gánh Hát Sử Nam, Người Giữ Ngựa, Thuồng Luồng Ở Nước, Bọn Trẻ Tàn Tật và Thuốc Mê. Từng viết trên các báo Bắc Hà (do ông và Trần Huyền Trân tự xuất bản, chỉ được vài số) - Tiểu Thuyết Thủ Năm - Truyền Bá.
Thâm Tâm ốm yếu, bé nhỏ, bệnh tật nhiều, viết không đủ sống mà lại có một gánh nặng gia đình. Ông không hút thuốc, không trà đình tửu quán tuy đôi khi uống rượu trong anh em.
Theo Hoài Việt, “anh là một người rất ít nói, hơi nghiêm lạnh. Bạn bè ai cũng chịu anh là một người cần cù, mẫn cán, mẫu mực trong công việc và đời sống. ” (TT và T.T.KH.tr.12).
Theo Vũ Cao,
“Anh sống nghèo khổ u uất... Từ trước, đọc thơ anh tôi cứ hình dung anh là một người hơi ngang tàng một chút, hơi chán chường và hơi say một chút. Nhưng khi gặp thì sự thật lại hoàn toàn khác, da đen xạm, người gày gò như Nam Cao, nhưng bé nhỏ hơn cả Nam Cao.
“Anh thường mặc bộ quần áo cánh đen, có thể ngồi ở bàn làm việc cả buổi không đứng dậy, không nói một câu. Anh làm việc hết sức cần cù, tỉ mỉ, và làm đủ mọi việc cho tờ báo: viết bài, trình bày, kẻ chữ; cắt xén... Đặc biệt là anh không hút thuốc, không nghiện trà, cũng không uống rượu, nếu có thì chỉ uống một chút lúc vui anh em. Rất ít khỉ anh cười, hoặc chỉ cười một tiếng rất khẽ, rồi nét mặt anh lạnh lùng đến khắc khổ."
Theo Từ Bích Hoàng
“Đây là lần đầu tiên tôi gặp Thâm Tâm và thấy khác với sự tưởng tượng của tôi khi đọc thơ anh trước đó. Anh người nhỏ nhắn, hiền lành, da tái xám vì sốt rét, thường hay đội chiếc mũ bê rê. Khi đó Thâm Tâm khoảng độ 30 tuổi, tính tình trầm lặng, ít nói.
...”Đông năm ấy rất lạnh, nhiều đêm sương mù dày đặc bay cả vào lán, nhưng giữa đêm thỉnh thoảng chúng tôi thức giấc, nhìn ra vẫn thấy bóng Thâm Tâm trùm chăn ngồi làm việc bên ngọn đèn dầu hắt hiu." (tr. 39)
"Có một dạo, Thâm Tâm mê một cô đào phố Khâm Thiên (gần nhà Trần Huyền Trân), nên có nhiều chểnh mảng công việc văn thương và cả phần nào tình bạn thâm giao. Trần Huyền Trân mấy lần khuyên can bạn nhưng chưa có hiệu quả. Thậm chí còn bị Thẩm Tầm cự nự, rồi gây sự lại. Hai người thành cãi vã to tiếng với nhau..." (TT và TT. KH., tr 6).
Ngoải một số thơ - sau này ông gộp lại thành thi phẩm Thơ Thâm Tâm, chỉ xuất bản năm 1988, sau khi ông mất đến 38 năm. Đọc tập thơ, có những bài tôi ngờ rằng nếu còn sống, Thâm Tâm đã loại ra ngoài. Có những bài không có khẩu khí và thỉ pháp Thâm Tâm, không những thế, còn sai niêm luật. Ông viết nhiều sách, là tác giả các truyện sau đây:
Mùa Đông (đoản văn, T.T.T.B, số 242,14-1939) - Lời Con Trẻ (truyện ngắn, T.T.T.B. số 283, 4-11-1939) - Lá Quạt Hoa Quỳnh (T.T.T.B số 429) - Thiếp Trông Chàng (truyện ngắn T.T.T.B số 433, 3-10-1942) - Người Đẹp (truyện ngắn, T.T.T.B số 440, 21-11-1942) - Bông Lan Trần Mộng |(T.T.T.B số440, 441, 442, 1942) - Tặng Người Yêu Thơ (truyện ngắn, T.T.T.B. số 451 6-3-1943) - Hiếu Khách (truyện ngắn T.T.T.B số 7, 12-1944) - Vương Một Chút Thương Ai (truyện ngắn T.T.T.B sô 456, 10-11-1943), Thuốc Mê (tiểu thuyết), v.v... Sau 1945 viết một số tác phẩm, nhưng không thành công: Lối sống, Đời Thơ... Người đọc nếu lưu tâm sẽ tự hỏi vì sao Thâm Tâm, cũng như một số nhà văn nhà thơ tên tuổi khác thời tiền chiến, như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng...- không thấy xuất hiện trên các tờ Phong Hóa, Ngày Nay, chẳng hạn, là hai tờ báo có danh thời đó? Văn chương Việt Nam thời đó có những trưởng phái, khuynh hướng khác biệt, qui tụ trên những tạp chí đối nghịch, tập hợp thành những nhóm khắc tinh. Điển hình là nhóm Tự Lực Văn Đoàn trên tờ Phong Hóa sau đóng cửa và tiếp bằng tờ Ngày Nay với Nhất Linh và gia đình Nguyền Tường một phía, và phía kia: tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, với ông Lê Cường và hầu hết các nhà văn khác. Có một nhôm nữa là nhóm Hàn Thuyên với những Trương Tửu, Nguyễn Đình Lạp và Nguyễn Đức Quỳnh. Hai nhóm sau thường là nạn nhân của các báo do nhóm Tự Lực Văn Đoàn điều hành.
Lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, khi phải học tới Nhất Linh, Hoàng Đạo, tôi tìm cách bỏ ra ngoài: lòng tôi dấy lên sự bực bội khi nhớ tới cuộc diễn thuyết ở Nam Định của Trương Tửu và Nguyễn Vỹ, để phá đám, phe Nhất Linh đã lái xe hơi vào tận nơi, bóp còi inh ỏi. Và người hùng Lê Văn Trương của tôi, một nạn nhân thường trực của nhóm này. Và nhà thơ thần tượng của tôi, Tản Đà, một đề tài chế diễu độc địa của tờ Phong Hóa.
[Hôm qua họ mạt sát Phan Khôi, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Lãng Nhân, Lưu Trọng Lư... Hôm nay họ cố làm mất giá trị Trương Tửu, Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh, Nguyễn Công Hoan... (Hà Nội Bảo, 1936), trích lại theo Thanh Lãng, “13 Năm Tranh Luận Văn Học”). “Xưa kia muốn làm cho Thế Lữ nổi tiếng về thơ mới, Tự Lực Văn Đoàn đã phải dùng đến cách làm cho thiên hạ tưởng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là một kẻ không có tư cách nhân phẩm gì nữa, khốn nạn vô cùng.” (Vũ Trọng Phụng, “Cái Thời Gièm Pha của Bọn Phong Hóa, Ngày Nay,” báo Tương Lai, 30.3.1937, như trên)].
Những chuyện ấy sẽ được đề cập khi có dịp. Còn bài này chỉ nói đến một người, Thâm Tâm, và những bài thơ mà ấn tương in đậm lên thời đại, cùng tài năng cũng như những huyền thoại về ông - từng làm nền cho những sinh hoạt ngâm vịnh, những bình giải thi ca của một giai đoạn, nhất là giai đoạn trưởng thành của những người làm thơ lớp sau ở miền Nam.
Nói đến Thâm Tâm không thể không nói đến T.T.KH. Mà nói đến T.T.KH là nói đến một chuyện dài. Câu chuyện có vài khúc mắc, cũng chỉ xin tóm tắt.
T.T.KH. là bút hiệu ký dưới 4 bài thơ, và trước sau, chỉ có 4 bài thơ này
- Bài Thơ Thứ Nhất đăng lần đầu trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, ngày 23.7.1937.
- Hai Sắc Hoa Ti-gôn, đăng lần đầu trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, ngày 20.11.1937.
- Đan Áo Cho Chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm, 1938,
- Bài Thơ Cuối Cùng, 1938.
Không phải tự dưng mà có Bài Thơ Thứ Nhất. Đây chỉ là bài thơ cảm để của một nữ độc giả, ký tên T.T.KH., gửi đến cho báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, sau khi báo này đăng truyện ngắn Hoa Ti-Gôn của nhà văn Thanh Châu.
“Họa sĩ Lê Chất, dậy vẽ tại trường Mỹ Thuật Hà Nội ngày nào cũng mua một bó hoa ti-gôn về nhà, để tưởng nhớ người thiếu nữ hái hoa ti-gôn mà chàng tình cờ trông thấy khi qua làng Mọc, gần Hà Nội, để tìm cảnh đẹp cho một bức tranh, khi chàng mới 24 tuổi, còn là một sinh viên trường Mỹ Thuật. Chàng yêu người con gái hái hoa đó “Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khỏe mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ.” Thấy một lần rồi, chàng yêu ngay, ngày nào cũng đạp xe qua nhà nàng, để nhìn trộm “khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ...”. Thét rồi nàng biến mất Lê Chất tương tư, bỏ lối vẽ cảnh chuyển sang vẽ chần dung đàn bà, đặc biệt trong màu đỏ máu, “được nhiều báo nước ngoài nói đến.”
Một hôm ăn tiệc tại Tòa Lãnh Sự Pháp, chàng gặp lại nàng. Hỏi tên, là Mai Hạnh. Nàng cũng giật mình: “Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?” Hai người nhảy một bản tango. Em đã có chồng.
Họ hẹn nhau trên một ngôi chùa trên đỉnh núi. Lê Chất rủ Mai Hạnh bỏ chồng theo mình. Trong tình yêu cuồng nhiệt, nàng nhận lời. Ngày hẹn đến, nàng không đến, chỉ đến bằng một lá thư. Mở thư ra, một nụ hoa "hình trái tim vỡ,” hoa ti-gôn, “đỏ hồng như nhuộm máu đào,” rơi ra. Vĩnh biệt. Lê chất vẫn lên tàu, đi Nhật, một mình. Nhưng từ đấy ngày nào cũng mua một bó hoa ti-gôn để trong phòng. Bốn năm sau, chồng Mai Hạnh viết thư báo tang, nàng đã chết ở Vân Nam. Lê Chất qua Vân Nam, đặt lên mộ nàng một bó hoa ti-gôn (dĩ nhiên) rồi trở về Hà Nội mà quên không hỏi vì sao nàng chết.”
Một nữ độc giả lấy phải ông chồng nghiêm, như chồng Mai Hạnh, cảm xúc khi đọc truyện, gửi đến toà báo một bài thơ nhan đế Bài Thơ Thử Nhất, dưới ký tắt là T.T.KH.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Làng Văn Hà thành xôn xạo đi tìm xem T.T.KH. là ai. Sự xôn xao đã khiến vô số thi sĩ tóc rối khoe rằng đó là người yêu của mình, mình đã là người làm tim nàng vỡ ra từng mảnh như hoa ti-gôn. Rồi nàng T.T.KH. bồi thêm một bài thơ nữa, là bài Hai sắc Hoa Ti-Gôn.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tìm phai, tựa máu hồng?
Sau bài thơ này thì đến cả các thi sĩ nổi tiếng cũng làm thơ tặng T.T.KH., như Nguyễn Bính, và Thâm Tâm. Dư luận nghi Nguyễn Bính chính là T.T.KH. nhờ bài thơ Nguyễn Bính đề tặng. Thế rồi không rõ do đâu mà báo Phụ Nữ Thời Đàm đăng lên bài thơ Đan Áo Cho Chồng, một bài thơ lục bát, nói là của T.T.KH. Nếu đúng bài đó do T.T.KH làm, thì đó là bài thứ 3:
Chị ơi nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương...
Nhưng vì T.T.KH. dặn rằng bài Đan Áo Cho Chồng chỉ đưa hai người bạn đọc chơi, cấm đăng báo, mà nay lại đem đăng báo, thì nàng giận, bèn làm Bài Thơ Cuối Cùng. (Những điều này đọc thấy trong bài thơ). Bài này mắng nhiếc thậm tệ người đã đem đăng báo bài thơ Đan Áo Cho Chồng:
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ Đan Áo của chồng em
Bài thơ Đan Áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Thế là chấm hết. Nữ thi sĩ T.T.KH. không bao giờ xuất hiện nữa. Nhưng tên tuổi T.T.KH. sẽ còn mãi. Và còn mãi nghi vấn T.T.KH. là ai, chữ viết tắt của cái tên như thế nào.
Người ta còn nói rằng Thâm Tâm có một bài thơ nói rõ tên T.T.KH. là Khánh, và Khánh là người yêu của mình, (bài Các Anh) song bài thơ này hẳn không do Thâm Tâm viết. Nó được đăng trong tập THƠ THÂM TÂM in năm 1988, 38 năm sau khi tác giả đã chết, và người sưu tập thơ lại không phải vợ con tác giả, dù vợ và một con trai tác giả, còn sống. Bài thơ thứ hai, nhan đề Màu Máu Ti-gôn, rất dở, thậm chí sai niêm luật, chắc chắn không thể là thơ Thâm Tâm. Trong bài Bài Thơ Thứ Nhất, T.T.KH viết:
Cố quên đi nhé mà câm nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ.
(T.T.KH., Bài Thơ Thứ Nhất).
Đã dặn như thế mà còn làm thơ ầm ĩ gọi tên người yêu cũ đã có chồng thì chắc chắn đây là một tình lang hạng bét. Những mô tả của bằng hữu về con người Thâm Tâm, thơ văn Thâm Tâm không cho phép người ta chấp nhận hai bài nói là của Thâm Tâm trong vụ T.T.KH là hai bài do ông làm. Để kết luận bài này, tôi muốn được lặng lẽ đọc một bài thơ luật của Thâm Tâm, bài thơ sầu gói ghém chuyện xưa và nay, chán người và chán cả mình.
NGẬM NGÙI CỐ SỰ
Lảo đảo năm canh lệ mấy hàng
Ngậm ngùi cố sự bóng lưu quang
Cuối thu mưa nát lòng dâu bể
Ngày muộn chuông đau chuyện đá vàng.
Chán ngán nhân tình sầu ngất ngất
Già teo thân thế hận mang mamg
Thẹn cùng trời đất mòn xuôi ngược
Chí lớn không đầy một tấc gang.
Thâm Tâm, T.T.T.B. 1944).
VL, Santa Ana, 1999.
- Thâm Tâm, trước cơn thảo muội Viên Linh Nhận định
- Tuệ Sỹ: Tuổi Trẻ Vạn Hạnh Viên Linh Nhận định
- Điếu thi: Thủ̉y Mộ Quan Viên Linh Thơ
- Bạch thư Phạm Huấn Viên Linh Nhận định
- Tuệ Sỹ, Tù Đày Và Quê Nhà Viên Linh Nhận định
- Tuệ Sỹ Giữa Mùa Thay Đổi Viên Linh Nhận định
- Ngọc Linh (1931-2002), nhà văn với bốn chữ mặn mà Viên Linh Hồi ký
- Nỗi âu lo của nhà giáo Bảo Vân Viên Linh Hồi ký
- Con hạc của vua Tự Đức Viên Linh Giai thoại
- Tản Đà Và Hai Chữ Non Nước Viên Linh Hồi ký
• Thâm Tâm, trước cơn thảo muội (Viên Linh)
• Tiễn Thâm Tâm (Tuệ Sỹ)
• Dòng Thơ Chính Khí thời tiền chiến: Nhà thơ Thâm Tâm (1917-1950) (Viên Linh)
- Ba bài bình bài thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm (Trần Đình Sử)
- Đưa người ta không đưa sang sông, Sao có tiếng sóng ở trong lòng... Phạm Hiền Mây()
- Nhà thơ Thâm Tâm (Vũ Quần Phương)
- Người phục dựng di sản văn học Thâm Tâm
(Ngô Văn Giá)
- Thâm Tâm với danh tác 'Tống Biệt Hành'
(Huyền Viêm)
- Ra mắt các tác phẩm văn xuôi của nhà thơ Thâm Tâm (Yến Anh)
- Có một Thâm Tâm truyện ngắn (Minh Anh)
- Tiểu sử (wiki)
• Trang Thơ (Thâm Tâm)
- 10 Bài thơ hay nhất của nhà thơ Thâm Tâm
- 10 Thi Phẩm Xuất Sắc Nhất Của Nhà Thơ Thâm Tâm (tripi.vn)
• Trang Thơ (Thâm Tâm)
• Thâm Tâm, trước cơn thảo muội (Viên Linh)
• Ngẫm mà hổ thẹn với “Chân dung 99 nhà văn đương đại” của Nguyễn Khôi (Lê Mai)
• Thi Phẩm "Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ" Ngợi Ca Tình Người Tình Đất (Luân Hoán)
• Đọc lại “Chương Dân Thi Thoại” của Phan Khôi (Nguyễn Khôi)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |