24-11-2012 | VĂN HỌC
Hoài Khanh và Thân Phận
PHẠM NGỌC LƯ
Nhắc đến Hoài Khanh, rất nhiều người yêu thơ miền
Nam thập niên 1960 và đầu 1970 nghĩ ngay đến Thân
Phận, tập thơ giúp anh thành danh trên văn đàn thuở đó.
Phải mất gần mười năm chập chờn đồng bóng đeo đẳng
đuổi bắt "nàng thơ", phải ngàn ngàn đêm bồng bềnh lờ
lững giữa hai bờ lục bát, Hoài Khanh mới có một Thân
Phận cho mình, cho đời.
Trước Thân Phận, tập Dâng Rừng (xb năm 1957) chẳng
gây nổi một âm vang nào bỡi những non nớt thô thiển
không thể tránh khỏi của một tập thơ đầu tay. Tuy vậy,
văn học miền Nam vào cuối thập niên 1950 cũng chưa có
gì khởi sắc cả, chỉ mới bước đầu tập hợp, hình thành; nên
việc một chàng thanh niên mới 23 tuổi sẵn sàng bán
chiếc mobilette của mình (theo lời anh kể) để lấy tiền tự
xuất bản tập thơ đầu tay nên đã nói lên lòng đam mê thơ
và sự khảng khái quyết tâm dấn bước vào ngưỡng cửa thi
ca. Sau Thân Phận, Hoài Khanh còn in tiếp hai tập thơ
nữa nhưng cũng chẳng có âm vang gì lớn lao cả, có thể
do tình hình văn học miền Nam sau hiệp định Paris 1973
đang hồi dao động nhớn nhác, thi ca "chẳng là gì" khi mà
thời cuộc đang chuyển động để bước đến bước ngoặc
định mệnh của lịch sử.
Chung quy, theo tôi, cả đời thơ của Hoài Khanh chỉ còn
để lại một Thân Phận. Mai kia, khi mà "những đám mây
hắc ám tan biến đi, bầu trời (văn học) muôn thuở vẫn
tươi xanh trong sáng", tôi tin rằng một số bài thơ trong
Thân Phận sẽ còn tồn tại với văn học sử Việt Nam.
Khi tập Thân Phận ra đời, kẻ viết bài này đang học trung
học và mới tập tễnh đến với thơ, chiêm ngưỡng thơ như
một nữ thần nhan sắc, ngẩng nhìn tên tuổi các thi sĩ thành
danh với lòng ngưỡng mộ: nào Nguyên Sa, Cung Trầm
Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Viên Linh.
Nào Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Hoài Khanh v.v. Dạo
đó tôi chưa hề đọc Thân Phận mà chỉ đọc thơ Hoài
Khanh đăng rải rác trên các tạp chí văn nghệ và một số
nhận định về thơ anh của các nhà phê bình uy tín. Có rất
nhiều lời khen thơ Hoài Khanh, đặc biệt là lục bát, một
lục bát của riêng anh, khác với lục bát Viên Linh, càng
khác hẳn lục bát Bùi Giáng. Mỗi nhà thơ mỗi vẻ, mỗi
tính cách; mỗi cây bút đều muốn tìm cho riêng mình một
đặc trưng tân kỳ độc đáo. Điều quan trọng là liệu cái hay
và cái mới của thơ thời đó còn đứng vững cho tới hôm
nay hay không?
Hôm nay, hơn 40 năm sau khi Thân Phận ra đời, qua bao
nhiêu ngày dâu tháng bể, qua trùng trùng nước chảy chân
cầu, béo trôi bọt nổi, tôi mới được đọc Thân Phận ngay
trước mặt tác giả và hiểu vì sao một số bài thơ của Hoài
Khanh đã đi vào lòng người đọc một thuở. Trong tay tôi
lúc này, Thân Phận là bản tái bản năm 1969, màu giấy
đã vàng úa nhưng nhiều bài viết trước năm 1962 (thuở
mà miền Nam đang tương đối thanh bình) như vẫn còn
nóng hổi hơi thở, ngây ngây mùi tâm sự và thườn thượt
cái buồn thiên cổ.
Thôi tôi trầm một vũng sầu
Rừng hoang bản ngã cúi đầu trống trơn
Nghiến răng xua mối u hờn
Lòng nghe tịch mịch tiếng buồn muôn xưa
(Thân phận, tr. 29)
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian
Ta nghe lòng vỡ cung đàn
Hồn âm thanh rợn chiều hoang lá cành
...
Con sông nào đã xa nguồn
Thì con sông đó sẽ buồn với tôi
(Dòng sông của tôi, tr. 26)
Đó là cái buồn không của riêng Hoài Khanh mà của cả
muôn thuở nhân sinh hữu hạn này và anh đã phổ nó vào
lục bát rất thành công. Cũng cái buồn căn cơ cốt nhục đó
anh đẩy vào thể thơ 8 chữ liên vận bằng bằng trắc trắc
hoặc thơ tự do thì nó khập khễnh ngay. Bởi vậy, theo tôi,
sở trường của Hoài Khanh là lục bát; thể thơ này rất phù
hợp với tính cách và tâm trạng của anh. Trong khi nhiều
bạn bè rất thích bài Ngồi Lại Bên Cầu và thuộc lòng nó
vì ai cũng mường tượng thấy hình bóng của chính mình trong:
Tôi lẩn trốn vì thấy mình không thể
Mây của trời rồi gió sẽ mang đi
Thì tôi khẳng định với Hoài Khanh rằng: Trông Theo mới
là bài hay nhất trong Thân Phận và có thể, của cả đời
làm thơ của anh:
Bến sông này bến sông này
Trăng xưa lạnh xuống hàng cây gục đầu
Người xưa chừ biệt là đâu
Này trăng gió cũ này câu giã từ
Lối đi vàng nhạt mùa thu
Nghe lau lách động niềm u uất buồn
Mắt người mang cả quê hương
Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm
Nhưng khi đã biết tình cờ
Thì hai thứ tóc đã mờ giấc xưa
Với trăng chia nhớ đôi bờ
Với sông bến nọ chia giờ ra đi
Người ơi còn lại những gì
Mai sau nếu chút tình si úa tàn
(tr. 56-58)
Vậy nhưng chẳng có bến bờ nào đâu! Chảy mãi không
ngừng nghỉ trong Hoài Khanh là dòng-sông-không-có-
hai-bờ của đìu hiu cô đơn, hoang vu quạnh quẽ. Một nỗi
buồn miên viễn thiên thu cứ lững lờ gờn gợn, cứ thấp
thoáng nhấp nhô, không chót vót cao, không thăm thẳm
sâu, chẳng mênh mông rộng, nó u u ẩn ẩn, mờ mờ mịt
mịt, lành lạnh thê thê. Gấp sách lại, nhắm mắt định tĩnh
một phút rồi lại mở ra, bàng hoàng đọc: "Nhìn nét mặt
Khanh tôi thấy sự Chết, tôi thấy Bệnh hoạn, Đau khổ,
Quằn quại, Khắc khoải, Ray rứt, Xao xuyến, Hãi hùng,
Cô đơn; tôi thấy sự Chiến bại, sự Thất vọng của con
người". (Phạm Công Thiện, lời tựa Thân Phận).
Tôi giật mình, ngẩng nhìn Hoài Khanh và e dè hỏi: "Chữ
nghĩa của Phạm Công Thiện khốc liệt quá, có thật hồi
còn trẻ anh ít nhiều giống như được miêu tả không?".
Hoài Khanh bình thản nói: "Đời tôi ăm ắp nỗi buồn từ
khi còn nhỏ tuổi". Người buồn thì làm sao làm thơ "vui"
nổi! Người đọc hầu như không tìm thấy trong Thân Phận
một bài hoặc năm ba câu tương đối lạc quan hoặc có chút
gì khinh mạn kiêu bạc là phải. Tôi lại tò mò: "Cùng thời
với anh, một số nhà văn nhà thơ khá ồn ào, tìm cách lăng
xê xưng tụng tán thưởng nhau, được phỏng vấn, được các
người đẹp ái mộ, lại còn được giải thưởng .v.v. Còn anh
thì lại im lìm lặng lẽ, nghĩ cũng lạ". Hoài Khanh vẫn bình
thản: "Tôi khác họ, tôi không thích những thứ đó". Thì ra
vậy. Tôi lại cúi xuống trang sách:
"Rồi tôi nhìn Khanh. Bỗng nhiên tôi thấy tất cả sự vật
ngừng lại, cả thế giới lặng lờ và Hoài Khanh cũng lặng lờ
như một bức ảnh treo tường" (Phạm Công Thiện, lời tựa).
Lặng lờ: cái mà tác giả Ngày Sinh Của Rắn ranh mãnh
nhìn xuyên suốt bạn mình 40 năm trước, thì hôm nay
càng lặng ngắt thê thiết hơn, giữa một thế giới quá hỗn
mang chẳng phút giây tĩnh lặng, Hoài Khanh không còn
là "bức ảnh treo tường" nữa mà anh đã hóa thạch từ lâu.
Tôi "đọc" ở anh sự hoang mang và nỗi hãi hùng của
một người đang lẩn trốn quá khứ của chính mình, tự chôn
vùi mình giữa Tang-Hải-Trận-Đồ hung bạo, cho dù phải
dày vò mình trong cái cô đơn truyền kiếp, cho dù đời đã
cuối mùa tóc bạc, cổ lai hi!
Hỡi ơi dâu bể không làm mệnh
Mà kiếp trầm luân cũng bạc đầu.
(Trở gối)
Như thế, rõ ràng Hoài-Khanh-nhà-thơ-không-chết, bởi
anh là nhà thơ đích thực. Từ lâu chúng tôi đã nghiệm ra
điều này: giữa trầm luân dâu bể, chắc chắn chúng ta bị
tước đoạt và mất mát rất nhiều thứ, nhưng nếu tự đánh
mất nhân cách của mình thì không bao giờ có thể trở
thành nhà văn nhà thơ đích thực được. Tuy vậy, trước
một Hoài-Khanh-đời-thường, lắm khi chúng tôi cảm thấy
áy náy, không vui bởi anh quá lặng lẽ, khép kín, ít nói,
hững hờ, nhạt nhẽo, giấu mình quá kỹ và rất ái ngại
những gặp gỡ có nhiều người. Anh vẫn đắm mình trong
cái thâm u hiu hắt, không chịu thoát ra khỏi vòng tay của
nỗi cô đơn thâm căn cố đế và dường như cứ bị những
hình bóng ma quỷ dữ dằn nào đó ám ảnh, đe dọa. Một
lần nữa tôi thấm thía đọc lời tựa dữ dội mà Phạm Công
Thiện viết cho Thân Phận khi ông mới 21 tuổi, đó không
hẳn là những câu tiên tri mà còn là một phán quyết
khắc nghiệt về thân phận của Hoài Khanh cũng như của
thơ anh: "Chỉ nhìn nét mặt Hoài Khanh và chỉ nghe sự im
lặng của anh, tôi kinh hoàng. Tôi muốn đuổi anh đi
ngay. Bởi vì đây là hình ảnh bi đát của đời, của con người,
của một kẻ bị đày ải giữa bãi đất hoang tàn của nghĩa địa
trần gian". Chắc Phạm Công Thiện không còn nhớ gì lời
tựa bốc đồng đó, nhưng lúc này nếu gặp lại người bạn cũ
của mình chắc ông sẽ rưng rưng và im lặng cái-im-lặng-
của-Hoài-Khanh! Và:
Ta đi lòng có trong mồ
Bước vô tư vẫn lạnh bờ ly tan
Sông xanh rời trắng mây vàng
Chút hồn sơ cổ rợn ngàn sương phong
(Quên, tr. 34)
Phạm Ngọc Lư (tháng 3.2006)
Phạm Ngọc Lư
Nguồn: Thư Quán Bản Thảo tập 24, tháng 7-2006
Chủ đề đặc biệt về nhà thơ Hoài Khanh

|