5-09-2012 | VĂN HỌC
Đãng Tử
NGUYỄN HƯNG QUỐC
Đãng Tử không phải là bài thơ hay nhất của Tô
Thùy Yên. Tôi thích hơn, ở Tô Thùy Yên, bài Qua
sông, bài Trường Sa hành và đặc biệt, chùm thơ Quỷ
xướng thi bao gồm ba bài thất ngôn: Hề, ta trở lại gian
nhà cỏ, Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, Và rồi tất cả
sẽ nguôi ngoai. Tuy nhiên, Đãng tử là bài thơ có vị trí
cực kỳ quan trọng: nó là cửa ngõ, từ đó, dẫn vào tư
tưởng, vào tâm hồn, vào cõi thơ bát ngát của Tô Thùy
Yên. Không thể hiểu rõ Tô Thùy Yên, nếu trước hết,
không đọc kỹ bài thơ này.
Bài thơ bắt đầu như một cách gợi chuyện:
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Ở bìa rừng bên gió sửa soạn
Tuần du - cuộc tuần du bất tận
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Giũa tầng trời cao chim giục giã
Từng giàn như những thủy triều sôi
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao
Về nơi hẹn nào không hẹn trước.
Đoạn thơ nói về gió, về chim, về mây. Gió tuần
du. Chim giục giã. Mây xôn xao. Nhưng chủ tâm của
Tô Thùy Yên không phải là tả ảnh. Nhà thơ chỉ muốn
nêu lên một số những hiện tượng trong tự nhiên. Và
muốn nêu lên thật nhanh để đi vào vấn đề chính mình
muốn gửi gắm. Nhanh quá thành hối hả. Mỗi khổ thơ
bị rút ngắn lại ba câu thay vì là bốn câu như thường lệ.
Và nhịp thơ nữa, để ý mà xem, cứ thoăn thoắt, thoăn
thoắt, âm vang câu trước chưa dứt, âm vang câu sau đã
tràn lên, nối tiếp, "như những thủy triều sôi".
Những hiện tượng tự nhiên ở trên dẫn đến nhận
định này:
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Vũ trụ miên man chuyển động đều
Chim đã bay quanh từ vạn cổ
Gió thật xưa, mây thật già nua
Nên vời một đời bao biến đổi
Mà trong vô hạn có chi đâu.
Hơi thơ đang dồn dập ở trên, đến đây, bỗng dưng
lắng xuống, trầm lại. Thành lặng lẽ suy tưởng. Thành
ngậm ngùi bâng khuâng. Ý, không mới. Từ xưa, đã lâu
lắm,t nhất từ Trần Tử Ngang, đời Đường, biết bao
người đã bàng hoàng trước cái mênh mông không
cùng không tận của trời đất. Tô Thùy Yên chỉ khác,
hơi khác ở thái độ: ông không hoảng hốt run sợ, đôi
khi một cách rất giả vờ, như hầu hết các nhà thơ trước.
Ông chỉ ưu tư khắc khoải.
Đoạn thơ kế tiếp vừa để chuyển mạch vừa để tô
đậm thêm cái ý trên:
Ly rượu rót mời xin uống cạn
Bài ca ta hát đến đâu rồi.
Xin hát nốt - Còn đi kẻo muộn
Cho úp ly - Bóng xế đường dài.
Thật mâu thuẫn. Đã biết "Nên với một đời bao
biến đổi. Mà trong vô hạn có chi đâu", thế nhưng, nhà
thơ - mà không phải chỉ nhà thơ - tất cả đều vội
vàng, đều thấp thỏm lo muộn màng, đều nôn nao
trước cảnh đường dài bóng xế.
Nhưng đi đâu?
Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn
Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê
Đến ngã ba, đành theo một lối
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.
Hai câu trên được gợi hứng từ câu ca dao quen
thuộc ở miền Nam:
Bìm bịp kêu nước lớn, anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Tô Thùy Yên không phải là người thương hồ.
Ông không đi trên sông nước. Nước lớn và chèo chống
mỏi mê chỉ là một cách nói. Vấn đề Tô Thùy Yên nêu
ra liên quan đến vấn đề lịch sử. Điệp điệp trùng trùng
trong lịch sử hiện đại là những ngã ba, ngã tư, ngã
năm, ngã bảy. Không còn nữa, những quốc lộ, những
đại lộ thênh thang dẫn về một hướng. Chỉ có những
ngõ ngách rối rắm, chằng chịt, những con đường đi
quanh quẩn và bế tắc.
Lịch sử đất nước chưa bao giờ
phức tạp và bị phân hóa đến thế. Phức tạp và phân
hóa ngay trong tư tưởng của mỗi người. Ngày xưa, nhớ
lại coi, tất cả đều đơn giản biết mấy. Lúc nào, ở đâu
cũng chỉ có một lý tưởng chói sáng. Từ "người khách
chinh phu" trong thơ Thế Lữ đến "người khách giang
hồ", trong thơ Lưu Trọng Lư đến những người "khách
độc hành" trong thơ Nguyễn Bính, thơ Trần Huyền
Trân, tất cả đều là những kẻ dứt khoát, hoặc đi hẳn
một con đường, hoặc ngồi lại hẳn một chỗ nhất định:
Ta đi, nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây, ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi.
(Nguyễn Bính)
Thời tiền chiến, các nhà thơ cùng lắm chỉ có chút
"phân vân" kiểu "con cò trên ruộng cánh phân vân" của
Xuân Diệu chứ chưa có những dằn vặt, những trăn trở
đầy nhức nhối trước lịch sử. Nói cho đúng, họ chưa có
ý niệm rõ ràng về lịch sử. Vấn đề lịch sử đặt ra lúc ấy
khá đơn giản: họ tiếp tục cuộc sống cũ hoặc là phải
vùng lên đánh đổ thực dân, giành lại độc lập cho tổ quốc.
Người đãng tử trong thơ Tô Thùy Yên, trái lại,
không ngớt thao thức trước lịch sử, lòng nung nấu
khát vọng hành động, nhưng trí lại chìm đắm trong mịt
mù hoài nghi. Đi, ừ, thì đi. "Đến ngã ba đành theo một
lối". Nhưng vừa đi vừa phân vân: "Tiếc ngẩn không
cùng theo lối kia".
Tô Thùy Yên biện mình cho thái độ lưỡng lự của mình:
Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục nào
Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn
Thiên thu lóe tắt vệt phù du.
Nhà thơ bịa. Chả có bí lục nào hết. Ông cũng
không hề đọc trộm. Lịch sử ta sờ sờ ra đấy. Và ông đã
nắm bắt được, từ lịch sử ấy, cái kết luận này: bao nhiêu
dâu biển, bao nhiêu biến thiên, cuối cùng, chỉ là "thiên
thu lóe tắt vệt phù du". Phù du. Lóe tắt. Thiên thu.
Thân phận con người, dưới ngòi bút Tô Thùy
Yên, nhỏ nhoi đến tội nghiệp. So với cái vô hạn của
trời đất, so với cái thiên thu của lịch sử, con người chỉ
là một vệt đom đóm nhỏ nhoi, chập chờn, lóe tắt hư ảo.
Hẳn Tô Thùy Yên nhớ đến Lý Bạch:
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài tạ không sơn khâu.
(Từ phú Khuất Nguyên mờ nhật nguyệt
Lâu đài qua Sở cỏ rêu xanh)
Nên ông nảy ra cái ý định giải quyết sự bế tắc
bằng văn nghệ:
Thuận tay, ta ngắt một cành sậy
Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu
Bay tản khắp vô cùng trống trải
Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau.
Cây sậy có thể chỉ là cây sậy. Nhưng cây sậy cũng
có thể là con người. Ý Pascal: "Con người chỉ là cây
sậy biết suy tưởng". Thơ Vũ Hoàng Chương: "Thơ
đâu?... Hãy thắp vào cây sậy. Ánh lửa mười phương
Nhật-nguyệt-đăng". Biến cây sậy thành cây sáo là biến
chính mình thành bài thơ để âm vang cái nỗi niềm
"những điều trông thấy mà đau lớn lòng". Như Nguyễn Du.
Nhà thơ, như vậy, trước hết, là một kẻ bất lực. Bất
lực trong cuộc đời. Trong bài Phương, Tô Thùy Yên
viết: "Văn nghệ, tôn giáo của những anh hùng bất lực".
Nhưng nhìn trong thăm thẳm thời gian, vượt qua lớp
lớp những thời đại khác nhau, nhà thơ lại là người
chiến thắng. Chiến thắng sự quên lãng. "Bất tri tam
bách dư niên hậu". Thơ Nguyễn Du. "Âm thừa tưởng
lạc đến muôn sau". Thơ Tô Thùy Yên.
Riêng tôi, tôi tin lắm, là, thơ Tô Thuỳ Yên sẽ còn
lại mãi. Mãi mãi.
*
ĐÃNG TỬ
Ngày kia trở lại Ngôi nhà Lớn,
Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Ở bìa rừng bên, gió sửa soạn
Tuần du – cuộc tuần du bất tận.
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Giữa tầng trời cao, chim giục giã
Từng giàn như những thủy triều sôi.
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao
Về nơi hẹn nào không định trước.
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Vũ trụ miên man chuyển động đều.
Chim đã bay quanh từ vạn cổ,
Gió thật xưa, mây thật già nua.
Nên với một đời, bao biến đổi
Mà trong vô hạn có chi đâu.
Ly rượu rót mời, xin uống cạn.
Bài ca ta hát đến đâu rồi?
Xin hát nốt – còn đi kẻo muộn
Cho úp ly – bóng xế đường dài…
Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn.
Đi, đi đâu, chèo chống mỏi mê?
Đến ngã ba, đành theo một lối,
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.
Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục nào,
Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn,
Thiên thu loé tắt vệt phù du…
Thuận tay, ta ngắt một cành sậy
Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu
Bay tản khắp vô cùng trống trải,
Âm thừa tưởng lạc đến muôn sau…
Nguyễn Hưng Quốc
Trich chương XV: Đọc thơ, trong sách "Nghĩ về Thơ",
Nxb Văn Nghệ, 1989

|