|
Bùi Giáng(17.12.1926 - 7.10.1998) | Du Tử Lê(.0.1942 - 7.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà thơ Diên Nghị
Tên thật Dương Diên Nghị (sinh 1933 tại Huế, nguyên quán Lệ Thủy, Quảng Bình), ông từng làm thư-ký tòa-soạn báo Chiến Hữu của Đệ tứ Quân khu và cộng tác cùng đăng thơ trên Đời Mới, Thẩm Mỹ, Phụng Sự, Cải Tiến, Quân Đội, Chiến Sĩ Cộng Hòa, Văn-Nghệ Tiền Phong, Lạc Việt, v.v. Ông đã xuất bản Xác Lá Rừng Thu (Lạc Việt, 1957) và nổi danh với thi phẩm này, sau đó là Chuyện Của Nàng (Huế: Lạc Việt, 1962),... Diên Nghị còn là đồng tác giả hai tiểu luận Khái Luận Về Thơ Mới (với Kiêm Đạt và Yên Khanh, ĐÀ Lạt, 1955, Lạc Việt, 1956) và Khái Luận về Văn-Nghệ Quân Đội (Với Kiêm| Đạt và Phan Lạc Tuyên, Ban-Mê-Thuột: Nhà in Nhân-Ký, 1956).
Trong Xác Lá Rừng Thu, Diên Nghị đã cho thấy nòi tình, như trong bài Đêm Lên Đường: người lính đa tình ở mỗi bước quân hành những tưởng người yêu luôn dõi theo từng bước, bài thơ đặc-biệt ở những tiếng trùng âm được lập lại khiến cảnh vật và tâm sự thêm thắm thiết:
“Đêm lên đường, vàng võ trăng non,
Trăng sao buồn lạnh, lối sao mòn!
Đèn hiu hắt dọi qua phên mỏng.
Lệ tủi mắt em, hồn xót hồn...
Súng đạn quân mang nặng vai gầy,
Ngựa mỏi, đồi cao, núi tiếp mây.
Rung rúc chim ngàn ca nhịp bước,
Rộn rực tình sâu, đầy vơi đầy
Bóng em lấp lánh bên dòng suối,
Theo mãi anh đi suốt dặm trường.
Chạnh nhớ hôm nào mình mới cưới,
Trầu xanh, cau ngọt, thương càng thương!
Vội gửi lời về thôn xóm ấy,
Bảo rằng chiến trận dù chưa thôi!
Nắng mưa dù lỡ ngăn sống núi,
Gối phượng, phòng loan, đôi chung đôi.
Trăng ngả chênh đầu, đêm rưng rưng,
Thì thầm tiếng lá rụng bên lưng.
Tưởng em đang nói câu đưa tiễn,
Gió động, cành lay, rừng lại rừng..."
Vương Vương; đăng Bách Khoa, Số 34, 1-6-1958, tr. 65)
Đêm lên đường hiu hắt trăng non
Trăng sao buồn lạnh, lối vào mòn?
Ngọn đèn ngả bóng in phên dậu
Lệ tủi mắt em, hồn sót hồn
Anh mang súng đạn nặng vai gầy
Bước mỏi, đồi cao phủ bóng mây
Rung rúc chim khuya vừa chợt giấc
Rạo rực tình sâu đầy vơi đầy
Bóng em lấp lánh bên dòng suối
Theo mãi anh đi suốt dặm đường
Chạnh tưởng hôm nào dâng lễ cưới
Trầu xanh, cau ngọt, thương càng thương
Vội nhắn lời về thôn xóm ấy
Bảo rằng chiến trận dù chưa nguôi
Nắng mưa dù lỡ ngăn sông núi
Gối phượng, phòng loan, đôi chung đôi
Trăng ngả chênh đầu, đêm rưng rưng
Thì thầm nghe lá rụng sau lưng
Ngỡ em đang nói câu đưa tiễn
Gió động, cành lay, rừng tiếp rừng"
(Xác Lá Rừng Thu)
Hay bài Nao Nao ghi là “gởi người thành nội Huế”:
Nắng rải chập chờn ngoài biển cỏ,
Liểu thưa, khói biếc, quyện mây cao
Hoa lan phảng phất mùi thương nhớ,
Nhớ một mùa xuân mới độ nào?
(...) Mắt nhung huyền dịu, màu thu biếc,
Tóc vẫn cài trâm, má ửng đào
Áo trắng lòng trong say nghiên bút,
Trăng thề vườn ước chuyện mai sau
(...) Âm thầm gởi mộng theo mây trắng,
Trời nước bao la thiên cổ sầu...
Làm thân lữ khách say lưu lạc,
Mơ tàn ngao ngán nỗi binh đao
Hồn quê khắc khoải, vườn quê quạnh,
Dặm đời súng chuyển nhịp thưa... mau
Quán nghèo ngâm lại vần thơ cũ,
Gà trưa cất giọng... trời!- nao nao...".
Thật vậy, ở Diên Nghị, đặc biệt là thơ tình và tình yêu đã theo chân người lính chiến lên núi rừng, xuống bình nguyên, từ khu chiến về đô thị,...
"mỗi đêm lưu trại anh thường viết,/ và viết tên em đến vạn lần".
Chuyện tình-yêu của tuổi trẻ, một người trẻ đã khóac áo lính, một người lính-đa-tình:
“súng đạn quân mang nặng vai gầy,
ngựa mỏi đồi cao, núi tiếp mây.
rung rúc ngàn chim ca nhịp bước
rộn rực tình sâu đầy vơi đầy...”
(Chuyện Của Nàng)
Đoản thi với âm thanh những “r” như muốn diễn tả tâm tình rạo rực, đa tình. Người lính tay cầm súng bảo vệ quê-hương, đất biển, nhưng cũng có những lúc nhung nhớ người yêu, người thân nơi quê nhà, và từ đó phát xuất những vần thi ca trữ tình và rất nhân bản, những thứ mà người lính phương Bắc Cộng-sản không bao giờ có được, cái tư riêng đã bị ý chí tập thể và những lý tưởng ngoài tầm con người giết chết, cấm đoán. Với người lính miền Nam, tâm tình có sao là tỏ bày vậy:
“buồm khát cuồng phong, chim khát bay
nguồn cao thèm nước, lá thèm cây
giang hồ mây nọ, thèm phương rộng
người cũng thèm yêu, cũng khát say”
Thật vậy, trong cả tập Chuyện Của Nàng, thơ của một người lính chiến, người đọc sẽ tìm thấy và cảm được tình-yêu và tâm tình tuổi trẻ. Tựa là Chuyện Của Nàng nhưng thực ra là Chuyện của Chàng, vì Chàng là kẻ đa lại tình lại đam mê thi ca bên cạnh tình người và thiên nhiên. Hãy nghe Chàng bày tỏ:
"Nàng ở đâu? Xóm biển, lưng đồi
Cao nguyên, bình địa, cuối chân trời?
Giữa lòng đô thị, khu thành ngoại
Lặn lội tìm nàng khắp mọi nơi...
Gạn hỏi bình minh, gặp hoàng hôn
Phương Tây nắng tắt, hắt hiu buồn
Vườn hoa tang chế, thờ ơ tiếp
Ngoảnh mặt, quay lưng, quá lạ thường
Nàng áo xanh, áo tím, diễm kiều
Áo nâu, dù loang lổ màu rêu
Bàn tay lao động, tay ngà ngọc
Vẫn một tâm hồn, tôi mến yêu
Kiếm tìm nàng, bạc trắng vàng trăng
Lắng nghe gió biển nhắn mây ngàn
Ngoảnh nhìn bốn phía còn hoang mạc
Biết tỏ cùng ai – chuyện của nàng
Réo gọi điên cuồng, rung vũ trụ
Trăng sao che khuất lối đi về
Không gian mù mịt vào vô thức
Cất bước chân theo nặng khối chì
Lãng đãng hồn trôi dòng chiêm bao
Bơ vơ, còn nhận biết phương nào
Nàng là mộng ảnh, hay chân thực
Nàng đứng nơi đâu - giữa địa cầu"
(Chuyện Của Nàng)
Đẹp làm sao hình ảnh trung trinh của mối tình đầu:
"Em giữ bên anh một ảnh hình
Một hồn thi sĩ lựa đầu xanh
Một đàn bướm trắng đùa trong gió
Một sớm hoa xoan nở đỏ cành
Bởi một ngày mai anh sẽ xa
Mộng xây lên mộng cũng phai nhòa
Duyên xưa cũng tắt hoàng hôn tím
Tình cũng hao tàn số kiếp hoa
Đôi nẻo đường về ngại nắng mưa
Song thu khép kín tự bao giờ
Nến gầy, canh lụn, đau lòng sách
Chữ cũng như người dáng ngẩn ngơ.
Em giở từng trang đọc từng tên
Từng đêm hè quanh lại từng đêm
Bài thơ tâm sự càng heo hắt
Người ấy năm nào em lỡ quên?
Hoa phượng rưng rưng rụng trước lầu
Mà nghìn năm nữa vạn năm sau
Thời gian chùi sạch màu son trẻ
Em cũng không quên được buổi đầu"
(Hình Ảnh Buổi Đầu)
Người đẹp yêu dấu trong tâm tưởng của nhà thơ được vẽ lên bức tranh hiện thực:
"da thịt nõn nà, màu bạch ngọc,
hồng thơm phấn mịn thắm làn môi
(...) tóc mượt huyền nhung, má ú ngon,
lưng ong choàng khít ngực no tròn
(...) chạm nhẹ đài thân, rợn cảm quan,
đê mê hồn lạc đến thiên đàng...”
Đê mê, rồi phải yêu, để tình-yêu trở nên lẽ sống, là lý do là mục-đích của cuộc đời:
"ta phụng thờ em biết mấy xuân,
quên ngày tháng rụng, sắc quan huân
choàng tay gối mộng đêm đêm trắng,
tưởng niệm hồn trinh vọng ý thần...”
(Chuyện Của Nàng)
Chàng đắm đuối trong cõi tình, nên dễ thề thốt:
"từ nay tôi chỉ biết nàng thôi,
mười ước, mười mơ vẹn cả mười
trao cả linh hồn cho trọn nghĩa,
cho nàng vui mãi những ngày vui!"
Vì khi đã yêu, đã thắm thiết, người tình đã là lẽ sống, thì nàng đã là tất cả:
“... hỡi nàng thần tượng của lòng ta
ta kính yêu nàng đến thiết tha..." (Chuyện Của Nàng)
Trong thơ Diên Nghị, ngoài tình-yêu, thiên nhiên được nhà thơ khoác lên lớp áo mộng mị và cả hiện thực của thi ca, vì thân lính chiến sống với núi rừng, sông hồ thường trực hơn là với người yêu. Ngày Xuống Muộn cũng khiến hồn thơ man mác, khi ở trong rừng sâu giữa hoa lá và thiên nhiên lành dữ chưa biết:
"Giữa đội đường hỏi bướm / Cánh bướm mãi đùa hoa
Hỏi rừng lá bao la / Gió Trường sơn vi vút
Ngắm nhìn thân gỗ mục / Xót thân phận rã rời
Anh cất tiếng gọi người / Đàn thú muông lẩn trốn
Rừng mênh mông, ngưng đọng
Anh lạc bước, nguôi quên
Dòng suối ngủ im lìm / Đóa dã lan hờ hững
Còn một ngày xuống muộn / Bỗng dưng thương mặt trời..."
Giữa núi rừng, nhìn cảnh vật, nhà thơ khoác áo lính nhung nhớ người yêu:
"Đối diện ngọn núi cao / Một ngày mấy buổi
Sáng nắng trong, núi gần gũi
Chiều mù sương, thấp thoáng, xa dần
Dáng núi quen thân / Đêm trăng, ra sân ngắm núi
Vằng vặc trăng thu, cõi trời mông muội
Nỗi buồn tôi - hoang vu
Một ngày nay buổi/ Ngắm núi lặng câm
Mùa xuân về cây núi xanh non
Mùa hạ đến, núi vàng úa cỏ
Dải mây lụa thướt tha cánh gió
Quấn quýt đầu non / Thanh thoát lời ru
“Sống cạn núi mòn”
Lòng chẳng cạn, núi chẳng mòn
Thề ước / Điều tôi mong có được
Dung nhan em/ Như núi"
(Núi)
Qua bài Hoa Cà Lá Mướp, nhà thơ đã dùng hoa trái thiên nhiên để tỏ tình với người nữ và những người thân:
"Tháng Giêng cà lố trái / Mướp mới chớm nụ vàng
Con trâu đầm dưới bãi / Quạ kêu vang xóm làng
Chuông rền xao động đất / Tháng Giêng nắng gay gắt
Loa gọi nứt đất bằng / Băn khoăn mẹ nhủ rằng:
Lệnh trên ban gọi lính!
Anh ba lô lên tỉnh / Em dắt trâu xuống đồng
Mắt lệ nhìn bịn rịn / Tiễn nhau qua bờ sông
Nước chảy trắng một dòng / Sao tình ta đợi bến?
Cỏ cây buồn quyến luyến / Em nghẹn thốt nên lời
Tháng Giêng lại nữa rồi / Tháng Giêng cà lố trái
Anh không về cắt hái / Hoa quả đợi khơ vàng
Anh thương mẹ, nhớ làng / Anh quên em răng được!
Bướm về thăm giàn mướp / Chim nhắc chuyện ngày xưa...
Buồng hương dáng ngẩn ngơ / Em như chim lẻ bạn
Năm ni trời đại hạn / Đồng cháy lúa khô cằn
Cối gạo hẫm đêm trắng / Giọng hị run mái lá
Con trâu gầy tơ tả/ Cái cày gãy làm đôi
Giặc dã vẫn chưa nguôi / Đạn rền khuya quạnh quẽ
Em là cầu Thê Thủy / Em là quán thu phong
Ngày tháng mỏi mòn trông / Chinh du hề xứ khứ ...
Dù ai đem tình tự / Dù ai nói ngả nghiêng
Mặc kệ miệng láng giềng/ Em chờ anh mãi mãi
Giêng Hai chừ đã lại / Cà đơm trái ra bông
Mướp chín quả vàng song/ Đợi anh về anh hái
Đàn trâu đầm dưới bãi / Lúa được trải vàng đồng
Anh lập nhiều chiến công / Để cà tươi mướp ngọt".
1955
(Xác Lá Rừng Thu)
Đã quen núi rừng làm bạn, nên khi nhận lệnh thuyên chuyển, nhà thơ chiến sĩ không khỏi nhung nhớ không-gian đã thân quen và ngạc nhiên trước bình nguyên vùng châu thổ sông Cửu:
"Lần đầu nhận lệnh đi châu thổ
Đất lạ, người xa, cũng ngậm ngùi
Lòng bỗng hoang mang thời bé nhỏ
Đêm nằm lẫn lộn nỗi buồn vui...
Qua phà Mỹ Thuận, qua Sa Đéc
Mây trắng bồng bềnh hướng Vĩnh Long
Cây mạ trổ đồng xanh thôn ấp
Nắng lồng bóng nước, sóng Tiền Giang
Lớp dân quân cùng đuổi giặc
Giặc tàn, quốc lộ 4 thênh thang
Xe lên, xe xuống, chen dồn dập
Ửng nắng bình minh ấm phố phường
Đò chợ, bến sông, người tấp nập
Dòng xuôi, sông đục lớp phù sa
Lao xao sóng nước, nhà cao thấp
Trường mới, sân vang tiếng học trò
Đàn bướm vẫy vờn hàng dâm bụt
Bếp nhà ai thơm gạo Nàng Hương
Khói lam chiều cuộn cao vun vút
Đã hết, quê ta khói lửa buồn...
Anh về trẩy hội cùng em đó
Trăng nước Cần Thơ, tỏa rạng trời
Đêm vọng u hoài, câu vọng cổ
Dạt dào sóng dạt, lục bình trôi
Ngày mai tan hội, anh đi tiếp
Châu Đốc, Ba Xuyên, ngược Kiến Hòa
Sông rộng, đồng dài, xanh lứa lúa
Yêu quê hương ấy bốn mùa hoa
Thân trai, trận mạc, chân chưa mỏi
Núi cách, sông ngăn, vẫn khát thèm
Thiếu vắng mùa thu trong biến đổi
Mà hồn thu đọng ở mắt em"
(Châu Thổ).
Diên Nghị là một nhà thơ quân đội miền Nam, và là một quân nhân đa tình, với người yêu, với thiên nhiên và chung thủy với quê-hương, với mẹ già và bạn hữu, đồng đội!
“Dặm đường ta đang đi / Mấp mô đèo, sauối, dốc,...
Gió sương buồn cô độc / Bàng bạc ánh trăng khuya
(...) Có người thèm Cao, Rộng / Mơ ước hóa thành chim
Nhưng vẫn ôm cuộc sống / Nan náu cạnh bên mình
Chúng ta là chiến sĩ / Đi mãi đường vẫn xa...
Chớ bao giờ nản chí, / Hồn mộng giấc phù hoa
Đi tới cùng tới đích, / Mặc non nước mênh mông,
Mặc gió mưa lận đận, / Quyết vượt để thành công...”
(Dặm Đường)
- Nguyễn Minh Nữu Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Lê Hân, Nhà Thơ Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Lê Hoằng Mưu, nhà tiểu thuyết tiên phong Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Linh Mục Thanh Lãng, nhà văn học sử Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Thơ Hà Nguyên Du Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Về Một Cuộc Hội Thảo Văn Học và Báo Chí Miền Nam 1954-1975 Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Văn Chương Có Biên Giới Không? Nguyễn Vy Khanh Tiểu luận
- Đến với Ngất Ngưởng Một Đời Mây của Phạm Hồng Ân Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Túy Hồng Nguyễn Vy Khanh Nhận định
- Cao Thoại Châu Nguyễn Vy Khanh Nhận định
• Lưu Dân Thi Thoại Bút Luận 25 Năm Thơ Hải Ngoại (Ái Khanh)
• Diên Nghị (Nguyễn Vy Khanh)
Tiểu Sử (coinguon.us)
• Kỷ Niệm Với Thế Viên, Tạ Ký (Diên Nghị)
• Con người, cuộc đời trong truyện Cõi đời, Cõi người của Thanh Thương Hoàng (Diên Nghị)
• Nhận định về bài thơ Liên Khúc Vô Thường của Phan Bá Thụy Dương (Diên Nghị)
• Một Người Thơ Quảng Nam: Nguyễn Nho Nhượn
(Diên Nghị)
- Đọc “Vu Vơ Cùng NgàyTháng" của TRẦN THIỆN HIỆP(banvannghe.com)
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn)
• Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |