|
Bùi Giáng(17.12.1926 - 7.10.1998) | Du Tử Lê(.0.1942 - 7.10.2019) |
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Nhà văn Mai Thảo
(1927 - 1998)
I. Thơ như một xóa bỏ tận cùng, khác nào đường gươm không cần đến gươm
- Nhà văn Mai Thảo được biết nhiều thời Văn Học Miền Nam từ năm 1956, vì ông là chủ nhiệm chủ bút tờ Tạp chí Sáng Tạo tại Sài Gòn. Ông là nhà văn sáng tạo của nhiều tập truyện ngắn. Ông còn là tiểu-thuyết-gia của những truyện tình dài. Nhưng ông coi thơ như tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương, nên ta không nói tới thơ của ông là một thiếu sót. Nơi bìa sau thi-phẩm của ông “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền” (xb. năm 1989 tại Nam California), có tóm tắt quan niệm thi-ca. Theo quan điểm của ông, cái "không còn gì nữa hết là thơ". Quan điểm này rất gần với Ðạo không diễn tả bằng ngôn ngữ thế gian được của Lão Tử, hay vô ngôn như "niêm hoa vi tiếu" của Phật Giáo Thiền Tông. Vấn đề này thật thâm viễn, xin không lạm bàn ở đây. Ði sát với quan điểm này, ông có những bài thơ thực sự như muốn xóa bỏ ngôn ngữ văn chương, xóa bỏ thẩm mỹ của nghệ thuật, xóa bỏ thi tính của thơ, vượt qua cảm nhận của thưởng ngoạn bình thường. Làm thơ như ăn như ngủ, rất gần với thơ Bùi Giáng mà ông có dịp nhắc đến (trong bài phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh về những điều ông biết về nhà thơ Ðinh Hùng), ví dụ bài thơ dưới đây của Mai Thảo:
Ðẩy linh cữu bạn vào lò hỏa thiêu
Trở về phòng riêng lấy rượu uống
Ly rượu không bạn buồn lạ lùng
Cứ uống như lúc bạn còn sống
(Bài thơ: Không Bạn)
Quả thật như một xóa bỏ thơ, không vần điệu, không trau chuốt ngôn từ. Nhưng đọc thấy thấm thía lúc chấm dứt dửng dưng của số kiếp con người. Ý tại ngôn ngoại. Mỗi người đọc có thể thấm thía một nội dung. Tiếp theo, một bài thơ khác:
Cánh rừng đang đổ gốc rồi gốc
Giờ đổ gốc nữa đổ cái xập
Ðứng ngây nhìn cái đổ thế nào
Ðể tự đổ mày thấy đổ tao
(Bài thơ: Rừng Bạn)
Bạn bè lớp lớp như rừng rồi lần lượt ngã gục. Số kiếp đốn hết cây này đến cây khác. "Ðổ cái xập" nghe thật tức cười, nhưng hàm ý nói sự chấm dứt mỗi đời người là vô phương chống đỡ. Cũng là ý tại ngôn ngoại; thể-cách biểu hiện niềm đau vô ngôn.
II. Thơ như một nghệ thuật trau chuốt: Ðường gươm múa lượn
- Ngược với các bài thơ có thể nói sát với quan điểm thi ca của ông đã kể trên, ông còn có các bài thơ thật trau chuốt. Các bài thơ “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền - Chờ Ðợi Nghìn Năm - Em Ðã Hoang Ðường Từ Cổ Ðại…”, có thể nói là cao điểm của nghệ thuật thi ca Mai Thảo. Những câu thơ đẹp lóng lánh như kim cương, trong đó ta thấy thấp thoáng cánh chim huyền sử, những thâm trầm thấu thị của siêu hình Phật Giáo:
- Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương
- Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy thẳm khơi
- Sao không, nhật nguyệt đều tăm tối
Từ thuở chim hồng rét mướt bay
- Ta cúi đầu đi khỏi bãi đời
Như vì sao mỏi muốn lìa ngôi
Như thuyền xa bến vào muôn biển
Tới đáy rừng chôn giấc ngủ voi.
"Như thuyền xa bến vào muôn biển" gợi nhớ con thuyền bôn tẩu xa lánh đời sống văn minh. "Tới đáy rừng chôn giấc ngủ voi" gợi nhớ hình ảnh các vị đại sư trong hang cốc trên núi, xa lánh cuộc đời huyên náo. Thơ với ông “trọn đời như một tình yêu kín thầm, tới cuối đời mới chịu phơi bày ra ánh sáng”. Tâm sự này hình như ông đã gởi gấm vào bài “Em Ðã Hoang Ðường Từ Cổ Ðại”.
III. Thơ như một đường gươm đơn sơ: Ðường gươm tuyệt kỹ
- Ba bài thơ sau đây đạt tới chỗ rất tự nhiên của Mai Thảo. Ðạt tới chỗ tự nhiên nhưng hàm ý không phải tự nhiên mà có. Ðường gươm gọn gàng tưởng chừng đơn sơ, không phải tự nhiên mà thành tựu:
Sớm ra đi sớm hoa không biết
Ðêm trở về đêm cành không hay
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu
Nơi góc tường in một bóng gầy.
(Bài thơ: Không Tiếng)
Khía cạnh thơ vẫn có trong đời sống thường nhật. Tác giả bắt được thi tính đó. Nó thật với đời sống hằng ngày đi về nơi phòng trọ cũng là chỗ làm việc của ông. Vầng trăng tuần hoàn là người bạn lặng lẽ soi bóng tác giả vào góc tường. Gợi nhớ câu thơ của thiền sư Viên Chiếu: "Theo gió, tiếng còi luồng bụi trúc/Kèm trăng, bóng núi quá đầu tường” (Ngô Tất Tố dịch). Thảo mộc, vầng trăng, bóng người, xưa sau vẫn còn là thi tính, nguồn cảm hứng cho thi ca. Nó không mất tích trong huyên náo của cuộc đời. Ta phải biết bắt lấy. Toàn bài rất giản dị mà lại hay, từ dùng đơn sơ mà thi tính luân lưu tỏ rạng.
Nửa khuya đợi bạn từ xa tới
Cửa mở cầu thang để sáng đèn
Bạn tới lúc nào không biết nữa
Mưa thả đều trên giấc ngủ đen
(Bài thơ: Ðợi Bạn)
Bài thơ hay ở tình bạn, ở từ dùng đắc địa, và vẫn khung cảnh có thi tính. Mưa thả đều và cầu thang để sáng đèn diễn được ý trông ngóng và thời gian dài chờ đợi. Ta hình dung một đêm mưa gió, các người bạn đang tới một phi trường bão rớt, mưa dằng dai...
Ði vắng từ xa trở lại nhà
Bộ đồ cũ mặc, ấm trà pha
Tựa lưng vào vách tường thân thuộc
Trong cõi riêng buồn thấy lại ta
(Bài thơ: Bộ Ðồ Cũ Mặc)
Bài thơ hay ở chỗ buồn lắng của nội tâm. Sau những chuyến đi, sau những dặm dài của quãng đời, sau những công trình văn học, sau những vinh quang, có lẽ ông buồn vì cảm nghiệm trùng hợp ý tưởng của một nhà văn nào đó (Jean-Paul Sartre?): "Ðời người rốt cuộc đều là những đam mê vô ích". Ta không nghĩ như vậy. Bài thơ còn hay ở khí vị Ðông Phương: "Bộ đồ cũ mặc, ấm trà pha". Tác giả tìm được một chút nhàn bên cạnh dòng trôi chảy của đời sống huyên náo, sát với quan niệm nhàn không cần phải tìm ở đâu xa: "Nguyệt lai môn hạ nhàn". (Ngắm trăng đến ngoài cửa, ấy là nhàn).
Ðường gươm múa lượn tượng trưng cho thơ của nghệ thuật trau chuốt, giống kiếm pháp của người Tây Phương ta có dịp thấy qua trên màn ảnh, như trong phim “Scaramouche” (Phim sản xuất năm 1952). Còn đường gươm xóa bỏ đường gươm, chỉ còn là những đường bay của tinh lực; tượng trưng cho quan điểm thi ca rất gần với Ðạo Học, giống như "Tịch tà kiếm pháp" hoặc "Hấp tinh đại pháp" rất huyền bí mà ta dó dịp đọc qua trong các “truyện võ hiệp Kim Dung”. Cuối cùng là đường gươm nhanh gọn tưởng như giản dị đơn sơ, tượng trưng cho nghệ thuật qua đó thơ làm lộ ra thi-tính trong cái thật của cuộc sống thường nhật. Ðó là đường gươm không xóa bỏ phương tiện đao kiếm, còn chập chờn hình dạng ở cách thủ thế, nhưng một khi vung tay thì nhanh gọn nên ta có cảm tưởng rất đơn sơ, không còn dấu vết của kỹ thuật tập luyện. Thơ giản dị mà thật ra tuyệt kỹ, giống kiếm pháp của các võ sĩ đạo Nhật Bản. Như ta từng thấy trong phim “The seven Samurai” (Phim sản xuất năm 1954): con mắt võ sĩ samurai lườm lườm tìm sơ hở của tên cướp đang thủ kiếm, và chỉ một loáng gươm thì đối thủ gục ngã.
(City of Walnut, California)
- Nghĩ Về Di-Cảo Mấy Ngàn Trang Của Một Nhà Thơ Yểu Mệnh Trần Văn Nam Nhận định
- Tình Quê Tường Thuật Và Tình Quê Thăng Hoa Trong Thi Ca (Qua Thơ Đạm Thạch) Trần Văn Nam Nhận định
- Giang Hữu Tuyên, Nhà Thơ Hải Quân Nhưng Tâm Hồn Hướng Về Châu Thổ Trần Văn Nam Nhận định
- Có hay không sự chuyển đổi tình cảm trong thơ phổ nhạc Trần Văn Nam Nhận định
- Trường ca khi ở trên tầng bình lưu Trần Văn Nam Thơ
- Hà Nguyên Du đi giữa Duy Mỹ của Thơ Cũ và rất Hiện Đại của Thơ Tân Hình Thức Trần Văn Nam Nhận định
- Với nhà văn Mặc Đỗ, ta biết thêm vài điều qua cuốn sách mới nhất của ông Trần Văn Nam Nhận định
- Nhà Văn Lữ Quỳnh Viết Truyện Phản Chiến Ở Vị Trí Và Bối Cảnh Nào? Trần Văn Nam Nhận định
- Dẫn Lược Từng Chương Tiểu Thuyết Danh Tiếng của Thomas Hardy Trần Văn Nam Giới thiệu
- Chất Thơ Do Cảm Nhận Vài Kiến Thức Về Tư Tưởng Của Kant Và Hegel Trần Văn Nam Nhận định
• Mai Thảo và Bút Pháp (Doãn Cẩm Liên)
• Vài Ghi Nhận Về Mai Thảo (Nguyễn Hưng Quốc)
• Miên Trường (Hồ Đình Nghiêm)
• Phỏng vấn nhà văn Mai Thảo (Nguiễn Ng. Í)
• Với Nhà Văn Mai Thảo: Thơ Như Đường Gươm Múa Lượn... (Trần Văn Nam)
• Mai Thảo (Học Xá)
• Mai Thảo người kể chuyện bằng văn (Trần Thanh Hiệp)
• Mai Thảo (Hợp Lưu)
Hành Trình Đến Tự Do Nhà Văn Thuyền Nhân Mai Thảo (Ngô Thế Vinh)
Nói Chuyện Với Nhà Văn Mai Thảo
(Thụy Khuê & Trần Vũ)
Vài ghi nhận về Mai Thảo (Nguyễn Hưng Quốc, Tiền Vệ)
Gối đầu lên chữ nghĩa (Hoàng Khởi Phong, Talawas)
• Màu lụa Hà Đông trong thơ Nguyên Sa (Mai Thảo)
• Những Ca Khúc Tiền Chiến (Mai Thảo)
• Ngôi Sao Hàn Thuyên (Mai Thảo)
• Nhật Tiến Vẫn Đứng Ở Ngoài Nắng (Mai Thảo)
• Tiếng hát Thái Thanh (Mai Thảo)
Mặc Đỗ Quy Ẩn (diendantheky.net)
Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời
(sangtao.org)
(diendantheky.net)
Chuyến tàu trên sông Hồng, Mưa núi,
Thơ: Ta thấy hình ta những miếu đền
(Talawas)
Tác phâm trên mạng:
- vantuyen.net - sangtao.free.fr
• Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc (Vương Trùng Dương)
• Trịnh Y Thư: Những mối tình trong “Đường về thủy phủ” (Phan Tấn Hải)
• Đọc sách “Sài Gòn không phải ngày hôm qua” của Phúc Tiến (Nguyễn Văn Tuấn)
• Đọc “Cùng nhau đất trời” của Khánh Trường (Song Thao)
• Vài cảm nhận nhân đọc tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của Trịnh Y Thư (Đỗ Anh Hoa)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |