|
|
|
VĂN HỌC |
GIAI THOẠI | TIỂU LUÂN | THƠ | TRUYỆN | THỜI LUẬN | NHÂN VẬT | ÂM NHẠC | HỘI HỌA | KHOA HỌC | GIẢI TRÍ | TIỂU SỬ |
Thơ Văn Trần Yên Hoà & Bằng hữu
•Tính phổ quát trong bài thơ Lưu Biệt
Nhà thơ Phạm Ngọc Lư
Bài thơ Lưu biệt của Phạm Ngọc Lư được trích từ thi phẩm Đan Tâm có nội dung như sau:
Qua cầu một cỗ áo quan
Tiếng sênh dìu bước hai hàng âm công
Bước theo khăn chế áo sồng
Hắt hiu cờ rũ lạnh lùng vàng rơi
Chân cầu nước ngậm ngùi trôi
Tiếng kinh tiếp dẫn bồi hồi tràng giang
Đôi bờ lưu biệt linh quan
Nước soi bóng nến hai hàng lung linh
Người không về cõi u minh
Người về bản thổ nặng tình cố hương
Từ nay mây khói vô thường
Theo người nhập thể cội nguồn nghìn xưa
(Nam Phước, tháng 6 – 1998)
Trước hết là 4 câu đầu. Chúng ta không thấy con sông hay giòng suối hay cái lạch hiện diện dù tác giả vẽ một đám tang qua cầu. Chúng ta chỉ thấy một đám đông với hai hàng âm công theo sau là những người thân mặc đồ tang chế. Lại thêm có những lá cờ dành cho tang lễ bay nhẹ trong gió cùng những giấy vàng mã rơi rớt trên lối đi:
Qua cầu một cỗ áo quan
Tiếng sênh dìu bước hai hàng âm công
Bước theo khăn chế áo sồng
Hắt hiu cờ rũ lạnh lùng vàng rơi
Theo tôi nghĩ, 4 câu thơ trên cũng quá đầy đủ để vẽ nên một đám tang mà chúng ta vẫn thường thấy ở miền Trung, đặc biệt là Huế.
Thử mượn một tấm hình trên Internet. Dùng crop để điều chỉnh sao cho phù hợp với 4 câu trên, tấm hình sẽ như thế này:
Một câu hỏi đặt ra là nhà thơ có nên dừng lại ở đây hay là tiếp tục? Nếu tiếp tục thì tiếp tục như thế nào? Nhà thơ Phạm Ngọc Lư đã tiếp tục bằng sự có mặt của một giòng sông:
Chân cầu nước ngậm ngùi trôi
Tiếng kinh tiếp dẫn bồi hồi tràng giang
Đôi bờ lưu biệt linh quan
Nước soi bóng nến hai hàng lung linh
Người không về cõi u minh
Người về bản thổ nặng tình cố hương
Từ nay mây khói vô thường
Theo người nhập thể cội nguồn nghìn xưa
Tấm hình sẽ như thế này:
Thêm một câu hỏi khác là tại sao thi sĩ lại chọn giòng sông thay vì chọn ngọn đồi, đồng cỏ, chân đèo hay con đường tỉnh lộ, con lạch hay ngoại ô thành phố như bài thơ của Phổ Đức sau đây:
vào khuya phố ngủ đèn mờ
đường heo hút gió dưới bờ cây đêm
xe đi khấp khểnh gập ghềnh
thây nằm trơ lạnh ngả nghiêng gục đầu
mặt mày nhầy nhụa mắt sâu
tay xuôi má hõm máu sầu tràn môi
về đâu khi héo cuộc đời ?
chiếc thân mệnh bạc quê người dở dang
xác vùi đâu giữa đêm tàn?
xe qua cầu nhỏ tiếng than lạc loài
công danh sự nghiệp mấy ai?
thấy gì hơn mảnh hình hài quắp co!
rũ đời trong chiếc xe bò
hỏi ai tránh được bước đò thời gian
ngoại ô sương lạnh buông màn
không gian truy niệm mây đan mưa nhòa
đường vào nghĩa địa mờ xa
xe lăn tiếng mỏi nghe mà buồn tênh!
(Phổ Đức - Xe bò đưa xác)
hay ở một xóm ăn chơi giang hồ:
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Ði vào ngõ khói Công Yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ u huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đang kêu xào xạo
Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
Trong tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xe dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.
(Văn Cao - Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc)
Ở Phổ Đức nhà thơ chọn bối cảnh là một ngoại ô trong đêm về sáng. Ở Văn Cao, là Phường Dạ Lạc. Còn ở Phạm Ngọc Lư là giòng sông. Mỗi tác giả có mỗi lối chọn lựa để mà sơn phết và gởi gắm tâm sự. Theo tôi, chỉ có giòng sông mới thật sự trọn vẹn nói lên nỗi buồn của kiếp người... Chỉ có giòng sông mới có đôi bờ sinh và tử... Bao nhiêu áng thơ văn, có áng thơ văn nào lấy ngoại ô hay một xóm ăn chơi để nói về ý nghĩa của cái bến cuối cùng của một đời người trên quả đất? Chỉ có giòng sông. Hàng triệu năm trôi qua, giòng sông vẫn vậy, con đò nhân sinh vẫn tiếp tục đón người về bên kia cõi khác... Vẫn là cuối cùng là hai chữ "không" và "về". Vẫn là "lưu" và "biệt".
Người không về cõi u minh
Người về bản thổ nặng tình cố hương
Thơ Phạm Ngọc Lư hầu hết được sáng tác theo loại thể vần niêm luật, nhất là thơ lục bát. Ngoài ra, ta còn thấy thể thơ hành (Biên cương hành, Cố lí hành), phú (Đề thơ trước mộ thanh xuân), Đường luật (Làng cũ). Thêm vào đó, anh dùng nhiều điển tích vào thơ như Tư Mã Giang Châu, Tầm Dương, Tương Như, Đằng Vương Các, Trương Chi, Tương giang, Nam Kha v.v... Trong thi tập Đan Tâm tôi chỉ tìm được hai bài thơ tự do, nhưng vẫn tuân theo âm vận đàng hoàng.
Quả đây là hiện tượng lạ. Trong khi chúng tôi đều thờ ơ quay mặt với điển tích, xem hành, phú là lỗi thời, thì anh vẫn còn giữ cái cốt cách của một nho phong hàn sĩ!
Một câu hỏi, thơ PNL là loạt thơ cũ hay mới?
Nhà phê bình văn học Lê Huy Oanh đã xem đây là hiện tượng "hình thức cũ nhưng ngôn ngữ mới".
Trong thiên khảo luận về 3 nhà thơ tiền chiến là Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương (Giai phẩm Văn l-8-1974), ông đã mang thơ Hoàng Trúc Ly và Phạm Ngọc Lư làm hai ví dụ dẫn chứng:
Trước hết là hiện tượng "hình thúc cũ nhưng ngôn ngữ mới", nghĩa là vẫn nhũng lối năm chân, bảy chân hoặc lục bát, nhưng ngôn ngữ thơ thường có vẻ rời rạc, uyển chuyển với những dụng ngữ được coi như có nhũng ý nghĩa mới hoặc được tạo cho nhũng ý nghĩa mới cùng với những hình ảnh khác lạ, thường khi xuất hiện đột ngột. Thứ ngôn ngữ mới này do đấy thường có vẻ bâng khuâng, mờ ảo chứ không rõ ràng, chân thực như ngôn ngữ xưa cũ:
Qua đây từng giọt buồn phiền
Mắt em cổ thụ thâm xuyên gọi mời
Bãi hoang cồn dựng bể khơi
Xuôi tay xin gởi miệng cười mộng du
(HOÀNG TRÚC LY, Hành Trình)
Uổng đời tôi một hòn đá vụn
rớt vô tình xuống đáy sông tan
còn nghe tiếng hú hồn lẩy bẩy
hay trên trên bờ nước xiết man man
Tội tình tôi chờ hái bụm mưa
rửa vết thương sâu ngòi lủa cháy
chiều nay ai đập vỏ chai bia
máu vọt lên giữa dòng nước xoáy (l)
PHẠM NGỌC LƯ, Rụng Tim Người
(1) Trong tập Đan Tâm không có đoạn này. Tác giả đã đánh "..." đế cho biết là thiếu một hai đoạn gì đó mà tác giả không nhớ. Có thế là đoạn này chăng?
Thật vậy, ngôn ngủ mới ấy được tìm thấy nhiều trong Đan Tâm, mặc dù hình thức thơ vẫn là cũ.
Một vài ví dụ chứng tỏ nội lực làm mới lục bát của PNL bằng những chữ rất bình dị này:
Xua em guốc mộc khua chiều
Giấu trong tà áo ít nhiều vu vơ
Anh qua cửa Phủ đúng chờ
Chiều em về muộn rêu mờ dấu chân
......
Đưa nhau ra bến sa mù
Lơ ngơ kỷ niệm chần chừ bước theo
Lòng em đẩy nhẹ mái chèo
Trôi đi... trôi với bọt bèo lòng anh
(Huế ngày về - tr. 51)
Hay có những ví von thật mới lạ và đầy phổ quát tính như thế này:
nằm mơ biển ngọt dỗ dành
tỉnh ra tâm sụ kết thành muối khô
(Sóng vỗ)
......
Tình ơi, không nặng sao chìm
Trăm năm rười rượi nằm im đáy lòng
(Huế, ngày về)
......
Phải người về Huế sáng nay?
Con tàu như nặng hơn ngày hôm qua
(Sân ga - tr. 39)
Thêm một cách làm mới khác mà tôi tìm thấy trong thơ PNL là sự cải biến con chữ.
Ví dụ:
Chén vui xin cụng môi hồng
Chén mừng chén tủi tạ lòng Trước Sau
Kể gì sớm bể chiều dâu
Tấc-Lòng-Thiên-Cổ bạc đầu chưa yên
(Tái Ngộ Tuy Hòa)
......
Chiều nay rực rỡ hoàng hôn
Đôi môi khép lại màu son hỏa hoàng
Mặn nồng đôi mắt Thời Gian
Xanh lên từng phút phai tàn ngất ngây
Giã từ thế kỷ)
Nhà thơ đã viết hoa hay bỏ gạch nối (-) những danh từ như trước sau, tấc lòng thiên cổ, thời gian. Sự biến dạng của những danh từ này giống như sự biến dạng giữa người và NGƯỜI, phật và PHẬT, chúa và CHÚA ...
Có phải đó chính là ngôn ngữ mới trong hình thức cũ như nhà phê bình văn học Lê Huy Oanh đã nhận định?
- Lữ Quỳnh, Bạn Tôi Trần Hoài Thư Nhận định
- Bức Tranh Quyên Sinh Trần Hoài Thư Tản mạn
- Ân Tạ Của Một Người Vừa Thoát Chết Trần Hoài Thư Tản mạn
- Dòng sông qua những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ Trần Hoài Thư Nhận định
- Nguyễn Phương Loan Người thi sĩ có tâm hồn vô lượng Trần Hoài Thư Hồi ức
- Hành trình tạp chí Chỉ Đạo Trần Hoài Thư Giới thiệu
- Sự Mầu Nhiệm của Nghệ Thuật Trần Hoài Thư Tản mạn
- Hành trình của ký giả Lô Răng Trần Hoài Thư Nhận định
- Thăm vợ vào ngày giáng sinh Trần Hoài Thư Thơ
- Quà Giáng Sinh 2021 của Blog THT: Thêm 72 số báo Văn của năm 1969, 1970, 1971... Trần Hoài Thư Giới thiệu
• Nhớ Phạm Ngọc Lư (Nguyễn Lệ Uyên)
• Vài suy nghĩ Về Tập Truyện Sợi Khói Bay Vòng Của Phạm Ngọc Lư (Đỗ Trường)
• Vài cảm nghĩ về thơ và truyện Phạm Ngọc Lư (Nguyễn Vy Khanh)
• Lưu Biệt và tính phổ quát trong thơ Phạm Ngọc Lư (Trần Hoài Thư)
• Phạm Ngọc Lư, người vẫn giữ lửa cho nền văn học miền Nam (Đỗ Trường)
• Đọc Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư (Khuất Đẩu)
• Thơ Như Một Định Mệnh Oan Nghiệt (Nguyễn Lệ Uyên)
• Phạm Ngọc Lư (Học Xá)
Vĩnh biệt Phạm Ngọc Lư (Trần Hoài Thư)
Từ thơ thể loại “Hành,” tới thi ca một thời của Phạm Ngọc Lư (Du Tử Lê)
“Biên cương hành”, địa-chấn-thi-ca Phạm Ngọc Lư (Kỳ 02) (Du Tử Lê)
“‘Hành biên cương’, ‘đàn tràng chiêu hồn tử sĩ’, thời đại mới? (Du Tử Lê)
Phạm Ngọc Lư (Luân Hoán)
Đọc Đề thơ trước mộ thanh xuân (Trần Kiêm Đoàn)
Nghĩ Về Nhà Thơ Phạm Ngọc Lư (Cung Tích Biền)
Đọc Biên Cương Hành của tác giả Phạm Ngọc Lư (Huỳnh Xuân Sơn)
Đọc Cố Lý Hành của tác giả Phạm Ngọc Lư (Huỳnh Xuân Sơn)
Gặp Lư Ở Tuy Hòa (Huyền Chiêu)
Đi Thăm Nhà Thơ Phạm Ngọc Lư (Nguyễn Quang Chơn)
• Xuân Thao, Thơ và Người (Phạm Ngọc Lư)
• Biên Cương Hành (Phạm Ngọc Lư)
• Trang Thơ Phạm Ngọc Lư (Phạm Ngọc Lư)
• Hoài Khanh và Thân Phận (Phạm Ngọc Lư)
• Nén Nhang Cho Người Bạc Mệnh (Phạm Ngọc Lư)
• Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)
• Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)
• Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)
• Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
• Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)
Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)
Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng, Quyển Hạ
Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)
Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)
Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)
Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)
Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)
Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):
Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)
Sách Xưa (Quán Ven Đường)
Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)
(Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)
Hướng về miền Nam Việt Nam (Nguyễn Văn Trung)
Văn Học Miền Nam (Thụy Khuê)
Câu chuyện Văn học miền Nam: Tìm ở đâu?
(Trùng Dương)
Văn-Học Miền Nam qua một bộ “văn học sử” của Nguyễn Q. Thắng, trong nước (Nguyễn Vy Khanh)
Hai mươi năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975 Nguyễn văn Lục
Đọc lại Tổng Quan Văn Học Miền Nam của Võ Phiến
Đặng Tiến
20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975
Nguyễn Văn Lục
Văn học Sài Gòn đã đến với Hà Nội từ trước 1975 (Vương Trí Nhàn)
Trong dòng cảm thức Văn Học Miền Nam phân định thi ca hải ngoại (Trần Văn Nam)
Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)
Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)
Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)
Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)
Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)
Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)
Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)
Dương Quảng Hàm (Viên Linh)
Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)
Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)
Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)
Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)
Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)
Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)
Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn
Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)
Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)
Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)
Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)
Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)
Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)
Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh
(Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)
Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)
Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn
Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)
Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An
Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com) |