16-04-2013 | VĂN HỌC
Thơ Như Một Định Mệnh Oan Nghiệt
NGUYỄN LỆ UYÊN
 Nhà thơ Phạm Ngọc Lư
Trong tập tiểu luận Vũ Trụ Thơ, khi viết về Nguyễn Du, nhà phê bình Đặng Tiến đã khoa lên một kiểu chữ nghĩa mới toanh mà gần gũi, mượt tươi mà trần trụi, khiến nhiều người khi đọc, vừa nhăn mặt thích thú vừa nhếch môi ngạc nhiên:
“Yêu một tác phẩm nghệ thuật giống như yêu một người đàn bà ở điểm là mỗi lần yêu, chúng ta khám phá ở người tình một trinh tiết mới. Yêu một tác phẩm là sáng tạo một trinh tiết mới cho tác phẩm” (1).
Nhìn lại, trong cuộc đời mỗi chúng ta, khi đọc những tác phẩm nghệ thuật, đã không ít lần lòng ta bỗng rung lên với hàng chữ nghĩa bay lượn trên thảm cỏ xanh rờn, khép trang sách, ta như đang sống cùng những nhân vật ấy, những “trinh tiết mới” ấy. Nhưng cũng không ít tác phẩm, mới giở năm bảy trang đã thoảng mùi khoai lang sùng, cơm thiu khắp các trang giấy trắng tinh, bởi không phải tác giả làm nghệ thuật mà dùng nghệ thuật để làm một cái khác, đẩy nó đi một hướng khác!
Với Phạm Ngọc Lư, anh chưa có và không bao giờ có được cái ngời ngời của những thiên tài thi ca đi trước, nhưng với tôi, Lư là người bạn thân thiết (từ nửa thập niên 60) và chữ nghĩa của Lư là “người tình” đích thực của tôi, kể từ khi tôi đọc một loạt truyện ngắn anh đăng trên Văn, Bách Khoa… Những nhân vật trong truyện đã mang không khí chiến tranh đi ngao du ca hát khắp cùng trời cuối đất, khi thì dưới một mái trường quê, khi thì một làng ven biển, lúc thì trong một thị trấn nhỏ miền núi, bị vây phủ tứ bề như một ốc đảo trong sa mạc... họ thuộc thế hệ chúng tôi. Tất cả đều không có giọng điệu gào thét, rên rỉ hay chửi bới dung tục, không có cả tiếng bom đạn ì ầm, mà chỉ có tiếng cười chưa thoát hẳn lồng ngực, những tiếng nói thì thầm của hai kẻ yêu nhau rờn rợn lưỡi gươm lìa ngang, xẻ dọc trên đầu; cuộc sống được đếm bằng giây bằng phút. Một cuộc sống mong manh tưởng chừng không với chạm tới ngày mai qua từng câu ngắn ngủn tài hoa... Trong suốt thời gian nầy, tôi chưa hề thấy anh làm thơ như những người cầm bút khác, cùng thời.
Mãi tới cuối năm 1970, tôi từ Sài Gòn về từ giã cha mẹ và các em để “xếp bút nghiên…”, buổi tối ngồi uống chén rượu lạt cùng với các bạn văn trước lúc chia tay, giữa chếnh choáng men say thế sự, giọng Lư hốt nhiên vang lên, nấc nghẹn:
Biên cương, biên cương, chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương…
……….
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương…
………
Đây biên cương, ghê thay biên cương
Tử khí bốc lên dày như sương…
(Biên cương hành)
Sáu mươi sáu câu thơ trong bài hành bắt rờn rợn da gà, gai ốc khắp người tựa hồ có hàng ngàn mũi kim nhọn buốt thịt xương. Tôi ngạc nhiên đến thích thú. Và nó đã ám ảnh tôi trên 30 năm qua; có lẽ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, nỗi ám ảnh ấy chắc sẽ còn “dày như sương”!
Ngay đêm ấy, tôi lẩm nhẩm những câu gãy khúc, nghe chừng Biên cương hành, như một dự báo về định mệnh oan nghiệt bắt đầu phủ trùm lên cuộc đời anh và đời thơ: lang thang đến sơn cùng thủy tận để mưu sinh, chân tay toé máu qua những tầng đất đá sâu hoắm cuốc đào để nuôi ba miệng ăn trong thời buổi nhiễu nhương. Có lẽ vì thế nên ngôn ngữ thơ Phạm Ngọc Lư có phong cách rất riêng, “không giống ai”, không ảnh hưởng Thiền, không hoàng phái quý tộc, cũng không viễn mơ, ảo tưởng vu vơ hoặc lạc quan rỡm, ca ngợi ba hoa. Đời đã xô đẩy anh tới tận cùng đáy xã hội để hiểu thấu thế nào là đau, là hận, là nhục... đối với chính bản thân và bạn bè, người thân. Đời sống của anh vốn dĩ rất thực, không màu mè, phỉnh phờ, ma mị, lừa lọc, dối trá với chính mình và với người khác, vì vậy từ đáy lòng, anh đã đẩy những dòng thơ của mình đến tận cùng nỗi hoan-lạc-đau-đớn-chua-cay, trộn lẫn chút bụi cát bùi ngùi trong chén cơm hâm, nước muối chan mặn đắng:
Mười lăm lăm nát thân Kiều
Còn thân ta nát bao nhiêu năm rồi?
Đoạn trường tuế nguyệt gấp đôi
Từ đêm trắng mộng, vốn lời trắng tay!
(Chỉ còn đan tâm)
Có lần Lư viết cho tôi: “... nhà thơ = lãng mạn + cô đơn + bi thương + kiêu hãnh; trong đó, “cô đơn” là thuộc tính bi thảm nhất. Chính trong cái cô đơn cùng cực, tôi thấy mình chết, ra đi và đã viết:
Tâm hồn bật một tiếng kêu
Vỡ ra lênh láng giữa chiều tang thương
Âm ba đồng vọng mười phương
Có ai thiên cổ đoạn trường hồi âm?
Tay ai nâng nhẹ phù thân?
Dìu tôi đi giữa phù trầm khổ đau
Tôi và nước mắt dìu nhau
Bơi qua bể khổ muôn màu nhấp nhô
Tôi và cát bụi ngu ngơ
Bay quanh trời đất đợi giờ tương sinh”.
(Thư riêng đề ngày 27.10.2002)
Nếu hiểu thơ ca là niềm hoan lạc của loài động vật
trong mùa tình động, nhằm cung phụng cho một ý đồ thì
quả thực thơ Lư không bao giờ có một chỗ đứng nếu
không muốn nói là bị dìm xuống tận đáy thăm thẳm sâu
của thứ búa rìu phê phán! Nhưng khốn nỗi và may mắn
thay những ý tưởng của Lã Bất Vi cũng chỉ tung hoành
một thời gian ngắn ngủi. Thơ ca vẫn cứ là thơ ca, như
tiếng lòng trung thực vốn có, không hề méo mó, dị dạng,
rống rít trên đường một chiều, để ngày nay thiên hạ vẫn
say sưa đọc Thôi Hộ, Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên... để,
Tỳ bà hành, Cung oán ngâm, Truyện Kiều... vẫn sừng
sững như một núi đá cao ngất! Và riêng tôi được đọc
những câu thơ "cùng khổ" của ngươi bạn thân. Được
cùng anh sướng điên lên, đau chùng xuống, la đà cùng
hơi men chếnh choáng theo những câu chữ phơi bày cả
ruột gan, không thèm thập thò ngần ngại, giả bộ nhắc
tuồng, đóng kịch. Bởi Phạm Ngọc Lư là Phạm Ngọc Lư.
Thơ Lư là của chính hắn ta chứ không phải kẻ nào khác
nhảy vào múa may, quay cuồng la hét ỏm tỏi như đám
sơn đông mãi võ rao bán thuốc trường sinh. Bởi anh đã
nhận ra rằng "cô đơn là thuộc tính bi thảm nhất", còn tôi
thì muốn thêm "... thuộc tính bi thảm nhất cua thơ ca", vì
nếu tôi không lầm, có lần A. Rimbaud cũng đã thốt
lên đại khái: "... hỡi thi sĩ, ngôi nhà cho ngươi trú ngụ
chính là sự cô đơn!".
Hơn ai hết, Lư hiếu dược tho ca là cuộc tình thuỷ
chưng và đau khổ giữa chính nó và người làm thơ, không
thể xóa nhoà phân ly. Cả hai "co ro" trong căn lều rơm
lạnh để cảm nhận cái đẹp tận cùng niềm hạnh-phúc-khổ-đau.
Và cũng bởi, chỉ vì anh hiểu ra rằng, thơ ca chẳng
những là hệ luỵ nhân sinh mà còn là cuộc rượt tìm cái
đẹp đầm đìa máu me cuộc sống, rờ đụng sự tan tác chia
lìa trăm năm nhân thế, nếm ngửi, ngụp lặn trong chốn
cùng tận ta bà, nên anh có quyền chìm đắm trong cõi hư
huyển kia, ngay thẳng thật thà. Vì vậy, khi tôi được đọc
thơ Phạm Ngọc Lư, không hề nhìn thấy bị phỉnh phờ bay
mây lướt gió mà, ngược lại như cùng được kẻo xuống
tầng địa ngục sáng-loá-hào-quang-con-người thật, rất thật
con người; đến độ có nhiều người đọc hay nghe anh tự
đọc thơ mình phải nhắm mắt, bịt tai; thậm chí còn len lén
bỏ đi nơi khác:
Phải ngươi ba chìm bảy nổi
Bắt ta mười kiếp long đong
Mây có – gió không
Tình câm – thơ điếc
Giai nhân còn mà anh hùng hết!
Chưa mùa đông sao tóc xanh rơi bạch tuyết
Ngũ thập rồi, tay trắng xoá bạch vân…
(Tuý Hoài)
Làm thơ viết văn bây giờ như một thử thách ghê
gớm. Nóii như nhà văn Albert Camus trong bài diễn văn
đọc tại viện Đại học Upsal Thuỵ Điển khi ông đến nhận
giải Nobel Văn Chương năm 1957, thì: "Ngày nay, sáng
tạo tức là sáng tạo một cách đầy nguy hiểm. Tất cả mọi
sự công bố tác phẩm đều là một hành đông và hành đông
ấy gánh chịu mọi dông bão của một thế kỷ không thể nào
tha thứ (...) Mọi văn nghệ sĩ đều bị đấy xuống con thuyền
của thời đại của họ. Họ phải bấm bụng mà chịu vậy, dù
họ có cho rằng con thuyền ấy tanh ngòm mùi cá, rằng
bọn cai trị ở trên thuyền quá nhiều và, tệ hơn nữa, rằng
con thuyền đi lạc hướng. Chúng ta đang ở giữa đại
dương. Văn nghệ sĩ cũng như mọi người phải bắt tay vào
mái chèo, khi đến lượt họ, chèo mà rán đừng chết gục,
nghĩa là có thể tiếp tục sống mà sáng tác" <(2).
Người bạn của tôi đang bước đi trên con đường chông
chênh đầy nguy nan đó để kiếm tìm điều mà chúng ta
khao khát. Cái Đẹp, để đêm đêm lẫn ngày ngày, một mình
ngồi trên bờ đá rêu phong, nghe muôn đời sóng vỗ...
Mỏi mòn tiếng sóng nghe chung
Bờ Tây tóc rụng... bờ Đông bạc đầu!
Nguyễn Lệ Uyên
Trang Sách Và Những Giấc Mơ Bay, tập I, trg 73
Thư Ấn Quán, 2010

1) Đặng Tiến, Vũ Trụ Thơ NXB Giao Điểm, SG 1972.
2) Albert Camus, Conference du 14 Decembre
1957, Upsal Université.
|