15-06-2012 | VĂN HỌC
Thụy An (Lưu Thị Yến)
VŨ NGỌC PHAN
Trong làng thơ, phụ nữ Việt Nam đã dự một phần
tuy chưa to tát gì, nhưng cũng đáng cho ta chú ý. Riêng
trong các nhà tiểu thuyết, từ xưa đến nay, số phụ nữ
vẫn còn là số rất hiếm. Người ta có thế kể mấy tập
tiểu thuyết do phụ nữ viết gần đây, như Tố Mai của
Đoàn Tâm Đan (do Hương Tuyết - Hà Nội xuất bản,
1935), Bóng mơ của Tú Hoa (do Đời Nay - Hà Nội xuất
bản, 1942). Và trong khi tôi viết những dòng này, thì
nhà xuất bản Nguyễn Du đang rao tập tiểu thuyết Răng
đen của Anh Thơ sắp ra đời.
Những tiểu thuyết do các bạn gái viết và làm cho
nhà phê bình phải lưu tâm thật quả không lấy gì làm
nhiều. Nhiều người hằng khao khát đọc những thiên
tiều thuyết giá trị của một vài nữ sĩ, vì đến nay, tâm
hồn của phụ nữ, tính tình cửa phụ nữ, đều do các
bạn trai khảo sát và phân tích. "Hiểu đàn bà sao bằng
đàn bà", người ta đã nghĩ như thế, nên người ta vẫn
mong chờ những tập tiểu thuyết tình cảm giá trị của
phái đẹp.
Một linh hồn chính là một tiếu thuyết tình cảm. Tác
giả Thụy An lại vốn là một nhà thơ. Tôi đã đọc thơ của
Thụy An trong Phụ Nữ tân văn, trong Đàn bà mới và
trong tuần báo Đàn bà (1), nhưng thơ của bà, theo ý tôi,
không nên đặt cùng hàng với tiểu thuyết của bà.
Một linh hồn là tập tiểu thuyết tả những tính tình
rất ngây thơ, rất trong sáng của Vân, một cô con gái giàu
lòng tín ngưỡng và giống như một bông sen tuy "gần bùn
mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Nàng không biết mặt cha - cha nàng là một gã Sở
Khanh, bỏ mẹ nàng từ khi nàng còn trong bụng mẹ - còn
mẹ nàng bị hết trai này lừa, đến trai khác lừa, rút cục sa
vào đời giang hồ và phải gửi nàng vào một trường bà phước
ở Sài Gòn. Bảy Thanh - đó là tên mẹ Vân - sống một đời
xa hoa ở Hà Nội, hết làm sạt nghiệp người này, đến làm
tan cửa nát nhà người khác, trong làng chơi không ai là
không biết tiếng; nhưng riêng Vân, cô học sinh thơ ngây
ở trường bà phước vẫn tưởng mẹ mình là người lương thiện,
chỉ biết có việc buôn bán để nuôi con.
Trong lúc học trường bà phước, Vân đã quen biết
Di, một thiếu niên mới ở Pháp về và có bằng cử nhân
luật. Hai bạn trẻ rất yêu mến nhau, Vân từ biệt trường
bà phước, cùng đi một chuyến xe hỏa ra Hà Nội với Di.
Về với mẹ và thấy những cử chỉ, hành động cùng sự xa
hoa của mẹ, nàng đã hơi ngờ vực, nhưng mẹ nàng là
một gái đĩ điêu ngoan, có tài bưng bít, nên nàng một
lòng kính yêu mẹ, tin cậy ở mẹ. Nhưng sự xa hoa vô
độ đưa Bảy Thanh đến cảnh nợ nần, mụ nợ nhiều quá,
nên muốn gả con cho phủ Tịch để phủ Tịch trả nợ cho
minh. Vân không thể dứt tình được với Di, tuy mẹ nàng
muốn cho nàng cảm động, đã nói dối nàng rằng cuộc
hôn nhân do ở ý định của cha nàng trước khi từ trần.
Di viết thư nói cho Vân biết cuộc đời trụy lạc của mẹ
nàng. Nghe nàng nói lại, mẹ nàng thú nhận cả: sở dĩ
Bảy Thanh phải lạc vào giang hồ là vì cha Vân và về
sau, cũng vì cả Vân nữa; Bảy Thanh đã bị chồng lừa,
đã phải mưu sự sống cho con gái và cho mình. Vân cảm
động, vâng theo lời mẹ, nàng hi sinh tình yêu, đành lấy
phủ Tịch để mẹ có tiền trả nợ. Nhưng rút cục, vợ phủ
Tịch đánh ghen, cha phủ Tịch đe dọa, nên anh chàng
mê gái đành thúc thủ, đành phải xin nghỉ quan, về làm
đồn điền cho cha.
Thế là Bảy Thanh không thoát được cái nạn bị tịch
ký, còn Vân phần thì bị nhục nhã, phần thì đã trót dứt
tình với Di, tuy đối với Di, nàng vẫn một lòng yêu dấu.
Hai mẹ con sa vào cảnh bần hàn, phải thuê một gian
nhà nhỏ ở một xóm tại Thái Hà. Vân muốn trông vào
nghề may vá và dạy dăm ba đứa trẻ để sống lần lửa
qua ngày, nhưng mẹ nàng đã quen nghề bòn rút, nên
chỉ muốn trông cậy vào một vài tình nhân cũ. Đến khi
Vân ốm, Bảy Thanh lại quay về cuộc đời trụy lạc để
nuôi con. Vân ngờ vực mẹ; một hôm nàng thuê xe sau
xe mẹ, thấy mẹ đến một chỗ hẹn hò ở bờ sông Cái, và
người đàn ông đứng chờ mẹ nàng lại chính là Di, ý
trung nhân cũ của nàng! Nàng tức uất lên, vội gọi mẹ.
Lúc đó, Di mới nhận ra Bảy Thanh và Vân. Di đâm ra
ngờ vực cả cái đời trong sạch của Vân. Người con gái
thơ ngây phẫn uất quá, lại đang ốm, nên trở về nhà hóa
ốm nặng hơn và chẳng bao lâu từ giã cõi đời, trước sự
thương tiếc của mẹ nàng và sự hối hận của Di, người
đã nghi oan cho nàng.
Một tiểu thuyết đặc tình cảm: tác giả đem mối tình
ngây thơ, trong trẻo của Vân để đối với cái tâm hồn trụy
lạc và gian trá của Bảy Thanh, mẹ nàng; rồi tác giả lại
đem cái tính tình cao thượng và thủy chung của Di để đối
với những tính tình đáng bỉ của bọn phủ Tịch, Bảo, Huyến,
nhân tình của Bảy Thanh.
Truyện lại xây dựng trong một khuôn tôn giáo. Có ba
nhân vật chính: Vân, Bảy Thanh, Di, thì cả ba đều mộ
đạo, đều tin tưởng ở trời, ở đấng Cứu Thế.
Lẽ tự nhiên, Vân là người giàu lòng tín ngưỡng hơn
cả. Những kẻ ăn xin, đối với nàng cũng là những con người
"đã có hạnh phúc mang một sứ mệnh cua Trời xuống cho
những kẻ giàu có". Vì chính họ là những kẻ nhắc cho người
giàu "tiết chế bớt sự xa xỉ lại và nghĩ đến những kẻ nghèo;
họ là cái cầu dẫn ta đến Thiên đường" (trang 55). Rồi mỗi
khi nàng buồn, nàng lại cần sự an ủi trong quyển Thánh
kinh: Nàng giở đoạn Chúa Cưu Thế vác cây Thánh giá
lên chỗ tử hình. Chưa bao giờ cái đoạn thảm sầu ấy lại
làm cho nàng xúc động đến thế" (trang 81).
Vân vốn là một thiếu nữ tính tình mềm yếu, nên đến
khi biết mẹ là "một gái giang hồ", lại thấy Di là người yêu
của nàng đã xa cách, nàng cảm thấy nàng như bị sa vào
cõi sa mạc mênh mông và chỉ có cách an ủi là đến nhà
thờ cầu nguyện. Hãy đọc đoạn văn tả những sự tin tưởng
êm đẹp của người con gái giàu tưởng tượng:
Trên bàn thờ Chúa và những bàn thờ nhỏ chung
quanh, vài ngọn nến le lói trong bóng nửa tối nửa sáng.
Ánh nến dập dờn làm linh động những pho tượng, những bức tranh.
Mặt Đức Bà như càng lúc càng rầu rĩ thêm và cứ dân dần sát xuống mặt Vân
và hai bàn tay mềm dẻo của Người thường chắp lại,
nay từ từ rời ra và đang xoa trên cái trán rạo rực
nóng bừng của Vân. Vân tưởng hít thấy cái hơi thở
thiêng liêng của Người và nghe Người thì thào như
một hơi gió: "Hỡi con! Hãy đem nỗi đau khổ gửi
vào lòng ta đây!"
Vân ngả hẳn đầu tựa vào bức tường mà lúc bấy giờ
Vân mơ màng thấy ấm ấm như tựa vào ngực Đức Bà.
Một câu chuyện bắt đầu giữa nguồn an ủi muôn năm
và nỗi đau đớn cực điểm". (trang 108)
Di cũng là một người mộ đạo như Vân. Mỗi lần
chàng muốn tìm sự an ủi, khi chàng hối hận, chàng đều
vào nhà thờ cầu nguyện. Tác giả muốn đặt truyện vào
một khuôn tôn giáo, cho nên đến Bảy Thanh, một người
mẹ tàn nhẫn lừa lọc cả con, cũng tin có Trời. Khi ngồi
trên xe định đến nhà lão thầu khoán Bảo để xoay tiền,
mụ cũng lẩm bẩm cầu nguyện: "Lạy trời phù hộ cho
con thành công! Lạy Trời phù hộ cho con thành công!"
(trang 145). Sự tin tưởng ấy cũng không phải vô lý. Bảy
Thanh cũng như nhiều gái giang hồ khác, là một người
đàn bà có một tâm hồn phức tạp. Mụ tin tưởng ở Trời
khi mụ lo lắng, khi mụ ao ước một mối lợi, nhưng đến
khi mụ thấy việc của mụ thất bại thì đến Vân là đứa
con mụ thương yêu nhất, mụ gửi vào nhiều hy vọng
nhất, mụ cũng hành hạ đủ điều.
Riêng Vân là một thiếu nữ mà tâm hồn lúc nào cũng
trong sạch lâng lâng. Nàng giàu tình cảm, nên tuy là tuân
theo lời mẹ lấy phủ Tịch, nàng vẫn vấn vương âm thầm
với Di trong tưởng tượng. Hãy nghe tác giả tả sự nhớ
nhung nồng nàn của Vân trong đêm khuya:
Nhưng chỉ ban ngày Vân thế, còn ban đêm mới
thật là lúc Vân sống mãnh liệt với bao tình thương nỗi
nhớ, với những kỷ niệm của Di. Trong thâm tâm, Vân
nghĩ rằng chả còn bao lâu nữa Vân sẽ mang tên người
khác, sẽ chết hẳn cả cuộc đời, Vân muốn sống hoàn
toàn về tâm hồn với Di trong cái thời gian sung sướng
còn lại ấy! Vân tỉnh mỉnh chuyện thầm với một Di
vô hình, nhưng thật đã hiển hiện cả xương cả thịt ở
bên Vân giữa lúc đênh khuya lặng lẽ!" (trang 127)
Cái tâm hồn đa cảm ấy, trong cảnh nghèo nàn, cũng
có những ý nghĩ nên thơ. Vân ốm, nhà túng bấn, nàng
thấy mẹ nàng hay đi, nên có ý ngờ vực mẹ lại quay về
cuộc đời trụy lạc để có tiên.
Đến khi nghe mẹ nói: "Má không đi nữa", Vân rất lấy
làm vui sướng:
"Vân thở dài như trút được một mối băn khoăn
nặng nề, và biết Thanh đang có điều suy nghĩ, Vân
giả tảng quay mặt vào vách, nhưng óc nàng lẩn vẩn
nghĩ: "Làm thế nào cho mẹ con ta có tiền". Nàng nhớ
ngay đến chuyện những con chim quạ mang bánh đến
nuôi sống những nhà tu hành ẩn dật đời xưa, nàng
ước ao mẹ con nàng cũng được cái may mắn ấy: có
lẽ bây giờ nàng nhắm mắt lại, lát nữa mở ra, đã có
sẵn sàng cả mọi thứ cần dùng". (trang 214)
Khác với tất cả những tiểu thuyết tình cảm của phần
đông nhà văn Việt Nam, Một linh hồn của Thụy An
là một tiểu thuyết đượm rất nhiều màu tôn giáo. Mỗi
khi một nhân vật chính trong truyện - như Vân và Di -
muốn giải điều phiền muộn, muốn tìm sự an ủi là lại
tìm đến Đấng Cứu Thế, tìm đến Đức Bà; vì thế mà họ
không bị những phản động lực làm cho họ sôi nổi, điên
cuồng. Họ là những tâm hồn bình thản, chịu đựng được
đau đớn và sẵn lòng hy sinh.
Đối với cái chết rất khổ não của Vân, giá phải một
thanh niên khác, có thể điên cuồng lên được, nhưng Di,
một thanh niên mộ đạo như Vân, chỉ gục đầu, khóc tấm
tức: "Xin theo ý Trời", sau khi nghe ông cố giảng giải:
"Con hãy bắt chước nàng. Con không thấy tất cả
những sự hy sinh tốt đẹp của nàng đều chan chứa lời
cầu nguyện phục tùng: "Lạy Trời! Xin theo ý Trời
định đó sao?" (trang 228)
Hàn Mặc Tử đã đem vào thi ca Việt Nam lòng tin
tưởng ở đạo Da-tô với một giọng say sưa đầm ấm. Thụy
An cũng xây dựng cho tiểu thuyết của bà có những nhân
vật tin cậy ở Đấng Cứu Thế, ở Đức Mẹ Đồng Trinh và
sẵn lòng nhịn nhục, hy sinh.
Nhưng đọc Một linh hồn, người ta nhận thấy điều
này không được thiết thực: Hà Nội chưa tới cái trình độ
có một gái giang hồ sang trọng như Bảy Thanh, có lẽ tác
giả đã đem cái khung cảnh Nam Kỳ là nơi tác giả đã từng
ở lâu năm ra đất Bắc. Điều thứ hai là đọc Một linh hồn,
người ta vẫn chưa có cảm tưởng mình sống trong truyện
cùng với các nhân vật. Có lẽ Thụy An đã tả Bảy Thanh
bằng những nét bút quá thô bạo và tả Vân bằng những
nét mềm yếu quá chăng?
Tuy vậy, Một linh hồn cũng đáng kể là một tiểu thuyết
xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay:
tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một
cách vững vàng, chắc chắn.
Vũ Ngọc Phan
(Trích "Nhà Văn Hiện Đại")

(1) Phụ Nữ tân văn xuất bản ở Sài Gòn; còn hai tờ Đàn bà mới xuất bàn
ở Sài Gòn và Đàn bà xuất bản ở Hà Nội, đều do Thụy An chủ trương.
|