1. Head_
    Ad-25-TSu-2301360532 Ad-25-TSu-2301360532

     

     

    1. Link Tác Phẩm và Tác Giả
    2. Qui Nhơn, Bình Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư (Nguyễn Mạnh An Dân) Ad-21 Ad-21 (Google - QC3) (Học Xá)

      10-01-2011 | VĂN HỌC

      Qui Nhơn, Bình Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư

        NGUYỄN MẠNH AN DÂN
      Share File.php Share File
          

       


        Nhà văn Trần Hoài Thư

      Sinh ở Đà Lạt, chạy loạn về Nha Trang, học ở Cô Nhi Viện Hòn Chồng, 11 tuổi về Thừa Thiên, đi học ở Huế, ở Sài Gòn, đi dạy ở Tam Kỳ, đi lính ở Thủ Đức, đi trận ở Bình Định. "Lý lịch" trông có vẻ giang hồ lãng tử; tuy nhiên thời chinh chiến của thế hệ thanh niên ra đời trên dưới thập niên 1940, an bình suôn sẻ mới là lạ, giang hồ lãng tử là nghề của chàng, có bất thường chăng là lính tráng cái gì, lại là lính thám kích sinh tử, với một chàng trai cân nặng không quá 40 ký lô lại kè kè đôi kính cận dày gần 8 độ. Chuyện có vẻ như đùa mà có thật, người có vẻ như hư cấu mà có máu có tim, biết cười biết khóc. Tên người lính trận lãng tử đó là Trần Hoài Thư.


      Có thể có nhiều ông lớn thắt cà vạt, ngồi xa lông, có thể có nhiều chàng trai bận đồ trắng thể thao xách vợt tennis kiểu công tử thành phố sẽ cau mày khó chịu hay cười khẩy chế nhạo khi nhìn thấy một người lính râu tóc xồm xoàm, áo quần hành quân lấm lem bê bết, lầm lì ngồi ở cà phê Dung, la cà lui tới những căn phòng "khả nghi" nơi phòng ngủ Thuận An, Chí Thành hay mặt mày đỏ gay cười nói bạt mạng ở câu lạc bộ Gió Khơi, ở quán Hạ Trắng. Có một chút phá phách ngang tàng, có một chút ngạo đời khinh bạc, có một chút ba gai, có một chút - cũng có thể có rất nhiều - u uẩn. Xin lỗi quí vị, xin hãy tự hỏi lại chính mình và đừng vội phê phán. Người lính đáng trách hay đáng yêu trong những giây phút bốc đồng ngắn ngủi giữa những lần hiếm hoi về phố sau những tháng ngày gối đá nằm sương, vào sinh ra tử. Người lính yêu đời, yêu người; người lính cũng hận đời, hận người và sòng phẳng sống thật với lòng mình, không làm dáng đóng trò, không tô son vẽ phấn, chuyện tự nhiên nhưng hiểu theo một cách nào đó cũng có thể là một chuyện dài, chuyện lớn tôi không định nói và có lẽ cũng không đủ chữ nghĩa để nói về những người lính hào hùng nhưng bất hạnh, anh dũng mà oan khiên của chúng ta. Bài viết nhỏ này đơn giản chỉ là những lan mang bất chợt khi tình cờ đọc lại tập thơ với lời đề tặng "những trang thơ đầy ngập Bình Định của tôi" của Trần Hoài Thư, coi như một lời cảm ơn muộn màng của một người Bình Định dành cho một người lính không sinh ra ở đây nhưng đã từng sẵn sàng dùng máu của mình để bảo vệ vùng đất khổ dân nghèo này.


      Máu, đúng - máu người, màu đỏ, vị mặn. Máu của người lính Trần Hoài Thư đã đổ ra ngay những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm Tết Mậu Thân tại cây xăng Ôông Tề, khu Năm, cửa ngỏ của thành phố khi cùng đơn vị "xuống núi" từ một doanh trại nghèo của Đại Đội 405 thám kích trên đồi Tháp Bánh Ít, băng đêm về giải cứu Qui Nhơn:


      ... Tôi bỏ em về miền duyên hải

      Ngày đầu năm lửa cháy Qui Nhơn

      Bộ đồ vàng trung đội ngụy trang

      Gian khổ lắm chiếm từng con phố

      Nhớ thằng truyền tin bò qua con lộ

      Cõng tôi về băng bó vết thương

      Nhớ vô cùng cô gái không quen

      Quên cả sợ, mang giùm tôi ly nước

      Tôi đã uống vào cơn đau khát

      Cả tình yêu chan chứa Qui Nhơn

      ...

      (Sợi tóc nhớ nhung)


      Tình yêu Trần Hoài Thư dành cho Bình Định không chỉ là Qui Nhơn, nơi có những mái tóc dài ở trường Sư phạm, nơi có những cô hàng cà phê môi mắt biết cười, nơi có ngôi nhà ở khu Sáu rộn ràng bằng hữu, người lính Trần Hoài Thư trải đời mình trên từng tất đất quê hương:


      Bồng Sơn mùa nước dâng sông Lại

      Ngày sủng loan trên những mảnh dừa

      Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức

      Nghe cận kề lửa hướng Tam Quan


      Bồng Sơn mây ám toàn tin dữ

      Chiều chưa buông, quận đóng năm giờ

      Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn

      Còn bên cầu, trơ trọi cây đa

      . . .

      Cây đa. Ngàn rễ đâm lòng đất

      Như tấm lòng người với Bồng Sơn

      Đa bám làng, tôi đi bám đất.

      Đất với làng, thương quá quê hương.

      (Cây đa bên cầu)


      Thương quá quê hương. Mùa hè đỏ lửa 72, Bồng Sơn, mặt trận bắc Bình Định, rất nhiều người đã đến đây và đã "bám đất", đã nằm lại nơi này, chỗ bờ bắc giòng sông Lại Giang, nơi có cây đa trong "Đêm Trăng" yên bình của Võ Phiến đã là một bãi chiến trường, là nơi mà một người lính, về sau thành một trong những "bức chân dung trên công viên buồn" ở công trường Quách Thị Trang: Hoàng Lê Cương đã nằm xuống để tạ tình với Bồng Sơn, để trả cái giá danh dự của một người lính đúng nghĩa cho tổ quốc. Trần Hoài Thư cũng đã đến đây, đã quặn lòng nhìn những hàng dừa cụt ngọn, đã tê tái khi thấy nhũng cô em hốt hoảng lìa xa trường lớp hối hả tản cư, đã đứt ruột nhìn giọt lệ buồn trên mắt người mẹ thời chiến:


      Hôm qua tôi dừng chợ Bồng Sơn

      Mẹ thằng bạn ôm tôi mà khóc

      Tôi nói làm sao qua dòng nước mắt

      Thị trấn này vừa mất thằng con


      Tôi quá buồn ra đứng bờ sông

      Sông Lại Giang ráng chiều đỏ sậm

      Nhớ nó ngã nhào trên bờ đá xám

      Thấy cả ngọn đồi nhũng xác Bắc Nam ...


      Bồng Sơn buồn, cả đất nước buồn, ai có trái tim cũng buồn nhưng với người lính thì dường như không phải đôi lúc mà là thương xuyên phải dằn lòng lại, phải cố dấu đi những nỗi buồn riêng vì những tiếng gọi chung. Tiếng gọi có thể không lớn lao, lộng ngữ kiểu vì nước vì dân gì hết mà tiếng gọi chỉ đơn giản từ ánh mắt trông chờ của những bác dân quê, từ giọng reo vui của một bầy em nhỏ, từ ánh nhìn trao gỏi không lời của một bóng hồng thôn dã, từ những gắng bó sống còn với những thằng em nhỏ nhoi, tội nghiệp trong cùng đơn vị. Người lính phải đi tới, giá nào cũng phải đi tới cho dẫu mỗi lần đi có thể là lần cuối cùng.


      Xe đổ đoàn quân ngoài chợ Huyện

      Hàng ngang quân lội ruộng băng đồng

      Tuy Phước, Tuy Phước, đêm tiếp viện

      Ta đã về, về lại quê em


      Ta đã về, lửa đạn, xẹt ngang

      Cây rào cản, vấp đau bầm ống quyển

      Dại bàng ơi, xin đừng kêu pháo yểm

      Tôi có nguời yêu, cô giáo trường làng

      . . .

      (Đêm tiếp cứu quận Tuy Phước)


      Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu

      Đại đội đi, một nửa không về

      Lớp lớp người nhào lên, ngã gục

      Đạn sủi bờ sủi đá, u mê


      Kỳ Sơn cao độ hai trăm thước

      Đêm hoảng kinh, đỏ huyết vần trăng

      . . .

      Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn

      Người chưa về tóc mẹ bạc như sương

      Ngày sau ai nhớ cho dòng lệ

      Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn

      (Kỳ Sơn)


      "Đại đội đi một nửa không về". . . Sợ không? - Sợ. Ớn không? - Ớn lắm. Đừng nói dóc, đừng làm anh hùng rơm. Người lính Trần Hoài Thư đã sống rất thật, rất người, biết sợ và cũng biết vượt qua nỗi sợ hãi vì những gì to tát hơn, ý nghĩa hơn:


      Thì ta ra trận, ta ra trận

      Trăm lần thì cũng chuyện rong chơi

      Vẫn chuyến bốc quân vào buổi sớm

      Vẫn chuyến trở về không buồn vui.

      . . .

      Thằng Mỹ lái tàu chơi mất dạy

      Hai càng chưa hạ đã bay cao

      Ta nhìn xuống thấp, run không nhảy

      Mày đạp ông, ông phải té nhào.

      . . .

      Lính cũ chỉ đường ta đánh trận

      Quân bò, ta lại chạy khơi khơi

      Phen này còn sóng về thăm phố

      Ghé lại em nuôi. Thưởng cuộc đời

      (Nhảy trực thăng Ở Phước Lý)


      Như vậy đó, người lính ốm, cận thị Trần Hoài Thư "Ráng giữ ống chân cho khỏi gãy. Ráng ôm khẩu súng như tình nhân. Cầu cho cặp kính dày không vỡ. Nhớ cột dây thun cho chắc ăn" để làm "ông Thầy" cùng "em út" trong Trung đội - chức vụ nhỏ nhất, trách nhiệm nặng nề nhất và cũng dễ chết nhất trong một đơn vị bộ binh tác chiến - lao tới:


      Băng đồng, băng đồng, đêm hành quân

      Người đi ngoi ngóp, nước mênh mông

      Về đây Bình Định ma thiên lãnh,

      Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn

      . . .

      Mưa lạnh thèm tu hơi rượu đế

      Để quên tim nhảy nhịp lo âu

      Giơ tay vuốt mặt lau tròng kính

      Giờ G, giờ G sao quá lâu.

      . . .

      Trung đội ta những thằng giữ đất

      Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly

      Ra Tam Quan qua rừng An Lão

      Từ Kỳ Sơn, Phước Lý, An Khê


      Đồng đội ta nhũng người đã chết

      Những Vọng, Nga, Nai, Bình Lò Heo

      Những Chấn, Hảo, Sơn, Tài Xóc Dĩa

      Đàn diều hâu thảm thiết khóc òa

      (Trung Đội).


      Người lính miền Nam oằn vai vì nhiệm vụ, ứa lệ cho đồng đội, ứa lệ vì đồng bào, vì mẹ già, vì em thơ, ứa lệ cho thân phận bi uất của chính mình nhưng sẵn sàng chia xẻ với tổ quốc những tai ương, chung chịu với quê hương mọi bất hạnh với một cõi lòng tràn ngập hào khí, một trái tim vượt thoáng, chất ngất thương yêu, không thù hận:


      Ta trở về giáp mặt chiến tranh

      Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm đỏ

      Thau rượu đế mừng ta thằng lính sữa

      Dzô ông thầy! hữu sự có thằng em

      . . .

      Ta lính miền Nam hề, gốc nho phong

      Không chiến tranh cũng thành đốc tờ đốc tiếc

      Thời thế đẩy đưa ta thành lính chiến

      Mang nỗi buồn như rừng lá khai quang.

      . . .

      Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng

      Ta cũng lênh đênh cùng mạt kiếp

      Ta trèo lên hỏi cây rùng có biết

      Có một nơi nào hơn ở Việt nam

      Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam?

      (Ta lính miền Nam)


      ... Cô hàng ơi cho tôi một ly không

      Tôi rót mời một người lính Bắc

      Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật

      Trên người vẫn còn sót lại bài thơ

      Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ

      Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng

      Tôi với hắn, đâu có gì thống hận

      Bài thơ nào cũng viết để yêu em ...

      (Một ngày không hành quân)


      Người lính, người thơ Trần Hoài Thư đã buồn, đã vui, đã cười, đã khóc, đã muộn phiền tiêu phí, đã kiêu hãnh hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho Qui nhơn, Bình Định. Hàng hàng lớp những Nguyễn Văn X, Trần Đình Y, Lê Văn Z cũng đã sống một thời như thế ở Phong Điền, Cam Lộ, ở Tân Cảnh, Kom Tum, Ở Bình Long, Hậu Nghĩa, Ở Chương Thiên, U Minh. Thời chiến, buổi nhiễu nhương, trai thời loạn. Có lẽ tất cả đều kiêu hãnh ngẩng cao đầu không hối tiếc về một thời đã qua nhưng chắc chắn sẽ ngậm ngùi khi nhớ lại:


      Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận

      Thoát giờ đây: tóc đã điểm hoa râm

      Khi gặp lại từ phương này quả đất

      Chợt nhìn lên: giờ vầng trán đã nhăn.


      Trong đôi mắt mỏi mê cùng cơm áo

      Có chút gì phảng phất của quê hương

      Mây Đèo Cả như hôm nào dừng lại

      Chiều Pleiku như buổi nọ mù sương


      Thấy như thể trời Bồng Sơn mưa đổ

      Chiều cuối năm quân chuyển xuống Đèo Nhông

      Đường xe lửa ai ngồi châm điếu thuốc

      Áo tơi dầu che khuất nẻo Cù Mông.

      . . .

      Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận

      Thoát giờ đây, tóc đã điểm hoa sương

      Khi gặp lại từ phương trời viễn khách

      Chợt nhìn nhau, sao đôi mắt cay nồng.


      Trần Hoài Thư! Xin cảm ơn đã đổ máu cho Qui Nhơn, xin cảm ơn đã đổ lệ cho vùng đất khổ dân nghèo Bình Định, xin cảm ơn vẫn luôn giữa trong tim "chút gì phảng phất của quê hương". Buồn phải không? Thôi, vòng vòng kiếm chỗ nào làm ly cà phê chơi, dù chắc gì ly cà phê viễn xứ đủ hấp lực làm quên nỗi buồn quá nồng, quá đậm trong lòng mỗi chúng ta.


      Ghé lại Dunkin gọi cốc cà phê

      Nhớ bạn, ra ngoài đường đốt thuốc

      Một chút cay cay xé nồng đôi mắt

      Như khói mù buổi sớm Việt Nam

      Cốc xây chừng để lại Qui NHơn

      Chắc sẽ nguội và đọng thành lệ đá


      LTS: Các đoạn thơ trên được trích từ thi phẩm Ô Cửa: Tuyển thơ Toàn Tập. Hiện thi phẩm này đã được tái bản, đóng bìa cứng rất công phu do chính tác giả tự thực hiện bằng tay từ A-Z. Các bạn, nếu thích, xin liên lạc tòa soạn, chúng tôi sẽ gởi tặng.


      Nguyễn Mạnh An Dân

      (Thư Quán Bản Thảo, tập 36 tháng 4/2009)

      Ad-22-A_Newest-Feb25-2022 Ad-22-A_Newest-Feb25-2022


      Cùng Tác Giả

      Cùng Tác Giả:

       

      - Tây Ninh – Chút Còn Lại Trong Lòng Người Lính Nguyễn Mạnh An Dân Truyện ngắn

      - Qui Nhơn, Bình Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư Nguyễn Mạnh An Dân Tạp bút

    3. Link (Tran Hoai Thu) Ad-31 Ad-31 = QC_250-250 (Học Xá)

       

      Bài viết về Trần Hoài Thư

        Cùng Tác Giả (Link-1)

      Trần Hoài Thư ... Mây Trắng Về Trời (Như Thương)

      Trần Hoài Thư Người Thầy Dạy Cũ (Trần Yên Hòa)

      Trần Hoài Thư, Ngọn Cờ Đầu: Nổ Lực Xiển Dương 20 Năm Văn Chương Miền Nam (Du Tử Lê)

      Thơ của người viết văn làm lính chiến Trần Hoài Thư (Hà Khánh Quân)

      Trần Hoài Thư và ước nguyện phục hồi văn chương Miền Nam Việt Nam (Hà Vũ)

      Vài hình ảnh kỷ niệm anh Trần Hoài Thư về Houston mừng Thư Quán Bản Thảo số 100 (Lương Thư Trung)

      Thơ Tình Tuổi Tám Mươi – Trần Hoài Thư (Doãn Cẩm Liên)

      Níu Một Đời, Giữ Một Thời (Ban Mai)

      Tình Yêu - Trần Hoài Thư (Doãn Cẩm Liên)

      Trần Hoài Thư và Ngọc Yến, với con chim chằng nghịch và nỗi nhớ quê (Ngô Thế Vinh)

      Chùm thơ Vịn của Trần Hoài Thư (Đỗ Trường)

      Nhà văn Trần Hoài Thư và việc xuất bản sách thân hữu (Trần Yên Hòa)

      Nghiệp Hành (Nguyên Minh)

      Vịn Vào Lục Bát Của Trần Hoài Thư (Phạm Văn Nhàn)

      Ra Biển Gọi Thầm: Niềm Đau Của Thế Hệ Lớn Lên Trong Thời Chiến (Lê Tạo)

      Trần Hoài Thư - Người Lính Và Nỗi Buồn Chiến Tranh (Đỗ Xuân Tê)

      Đọc "Truyện Từ Văn" của Trần Hoài Thư (Hoàng Ngọc Hiển)

      Trần Hoài Thư (Học Xá)

      Qui Nhơn, Bình Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư (Nguyễn Mạnh An Dân)

      Ngồi "Quán" Với Trần Hoài Thư (Lê Văn Trung)

      Lang Thang ... Quán (Nguyễn Lệ Uyên)

      Hành Trình Của Một Cổ Trắng (White Collar) (Phạm Văn Nhàn)

      - Tang lễ nhà văn Trần Hoài Thư (Trần Trung Đạo)

      - Vĩnh Biệt Anh Chị Trần Hoài Thư - Nguyễn Ngọc Yến (Vương Trùng Dương)

      - Tác Giả và Tác Phẩm Trần Hoài Thư: I,   II

        (Ngộ Không Phí Ngọc Hùng)

      - Trần Hoài Thư, Người của Di Sản Văn Học Miền Nam (Nguyễn Minh Nữu)

      - Giới thiệu nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư (Trần Trung Đạo)

      - Vịn Vào Lục Bát, điểm tựa cuối cùng của Trần Hoài Thư (Đỗ Trường)

      - Trần Hoài Thư, người khâu di sản (Trần Doãn Nho, nguoi-viet.com)

      - Trần Hoài Thư, 'hiệp sĩ lẻ loi' của văn chương miền Nam (Ðỗ Dzũng)

      - Qua Ô CỬA của Trần Hoài Thư, Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam (Phan Bá Thụy Dương, vnthuquan.net)

      - Trò chuyện cùng Trần Hoài Thư về Thư Ấn Quán & Thư Quán Bản Thảo (Trần Doãn Nho, luanhoan.net)

      - Nhà văn Trần Hoài Thư và tác phẩm “Văn Miền Nam Thời Chiến” (Mặc Lâm phỏng vấn, rfa.org)

      - Trần Hoài Thư và Châu Hải Châu (luanhoan.net)

      - Trang Trần Hoài Thư (art2all.net)

      - Blog Trần Hoài Thư & Thư Quán Bản Thảo

      - Facebook Tranhoaithu

      - Facebook Hoài Thư Trần

       

      Tác phẩm của Trần Hoài Thư

        Cùng Tác Giả (Link-2)

      Lữ Quỳnh, Bạn Tôi (Trần Hoài Thư)

      Bức Tranh Quyên Sinh (Trần Hoài Thư)

      Ân Tạ Của Một Người Vừa Thoát Chết

      (Trần Hoài Thư)

      Dòng sông qua những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ (Trần Hoài Thư)

      Nguyễn Phương Loan Người thi sĩ có tâm hồn vô lượng (Trần Hoài Thư)

      - Đọc một bài thơ "lục bát mới" trước 1975 của Thành Tôn,

      - Nhà Văn Trẻ Ấy Bị Thương,

      - Đi tìm “bài thơ trên xương cụt” của Chinh Ba ,

      - Trần Phong Giao và những người viết trẻ,

      - Ý Thức Và Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang,

      - Đi tìm Vũ Hữu Ðịnh ở Mỹ (Tạp bút)

       

      - Gò Bồi Bên Kia Sông,

      - Ra Biển Gọi Thầm,

      - Thủ Đức Gọi Ta Về,

      - Thám Báo,

      - Ngày cuối cùng của một cổ trắng

       

      Thư Quán Bản Thảo

      Tạp chí Văn học Nghệ thuật phát hành bất định kỳ, tập 1 (tháng 10-2001), tập 45 (tháng 1-2011), nhóm chủ trương: Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Trần Bang Thạch, Cao Vị Khanh, NG~.

      Ðịa chỉ P.O Box 58, South Bound Brook, NJ 08880.

      Email: tranhoaithu@verizon.net

       

      Bài Viết về Văn Học (Học Xá)

       

      Bài viết về Văn Học

        Cùng Mục (Link)

      Hà Đình Nguyên - Từ ngã ba Dầu Giây đi tìm những chuyện tình nghệ sĩ (Hoàng Nhân)

      Giáo sư Nguyễn Văn Sâm: Kim Long – Xích Phượng (Ngự Thuyết)

      Trịnh Bửu Hoài, nhặt suốt đời chưa hết mùi hương (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)

      Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố (Trần Hữu Thục)


       

      Tác phẩm Văn Học

       

      Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (Nguyễn Vỹ)

      Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam (Thanh Lãng): Quyển Thượng,  Quyển Hạ

      Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932 (Thanh Lãng)

      Văn Chương Chữ Nôm (Thanh Lãng)

      Việt Nam Văn Học Nghị Luận (Nguyễn Sỹ Tế)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (Tạ Tỵ)

      Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Tạ Tỵ)

      Văn Học Miền Nam: Tổng Quan (Võ Phiến)

      Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Huỳnh Ái Tông):

              Tập   I,  II,  III,  IV,  V,  VI

      Phê bình văn học thế kỷ XX (Thuỵ Khuê)

      Sách Xưa (Quán Ven Đường)

      Những bậc Thầy Của Tôi (Xuân Vũ)

      Thơ Từ Cõi Nhiễu Nhương

        (Tập I, nhiều tác giả, Thư Ấn Quán)

       

      Văn Học Miền Nam (Học Xá) Văn Học (Học Xá)

       

      Tác Giả

       

      Nguyễn Du (Dương Quảng Hàm)

        Từ Hải Đón Kiều (Lệ Ba ngâm)

        Tình Trong Như Đã Mặt Ngoài Còn E (Ái Vân ngâm)

        Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba (Thanh Ngoan, A. Vân ngâm)

      Nguyễn Bá Trác (Phạm Thế Ngũ)

        Hồ Trường (Trần Lãng Minh ngâm)

      Phạm Thái và Trương Quỳnh Như (Phạm Thế Ngũ)

      Dương Quảng Hàm (Viên Linh)

      Hồ Hữu Tường (Thụy Khuê, Thiện Hỷ, Nguyễn Ngu Í, ...)

      Vũ Hoàng Chương (Đặng Tiến, Võ Phiến, Tạ Tỵ, Viên Linh)

        Bài Ca Bình Bắc (Trần Lãng Minh ngâm)

      Đông Hồ (Hoài Thanh & Hoài Chân, Võ Phiến, Từ Mai)

      Nguyễn Hiến Lê (Võ Phiến, Bách Khoa)

      Tôi tìm lại Tự Lực Văn Đoàn (Martina Thucnhi Nguyễn)

      Triển lãm và Hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn

      Nhất Linh (Thụy Khuê, Lưu Văn Vịnh, T.V.Phê)

      Khái Hưng (Nguyễn T. Bách, Hoàng Trúc, Võ Doãn Nhẫn)

      Nhóm Sáng Tạo (Võ Phiến)

      Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo (Talawas)

      Ấn phẩm xám và những người viết trẻ (Nguyễn Vy Khanh)

      Khai Phá và các tạp chí khác thời chiến tranh ở miền Nam (Ngô Nguyên Nghiễm)

      Nhận định Văn học miền Nam thời chiến tranh

       (Viết về nhiều tác giả, Blog Trần Hoài Thư)

      Nhóm Ý Thức (Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, ...)

      Những nhà thơ chết trẻ: Quách Thoại, Nguyễn Nho Sa Mạc, Tô Đình Sự, Nguyễn Nho Nhượn

      Tạp chí Bách Khoa (Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, ...)

      Nhân Văn Giai Phẩm: Thụy An

      Nguyễn Chí Thiện (Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Vinh)

      Danh Mục Tác Giả: Cùng Chỉ Số (Link-2) An Khê,  Andrew Lâm,  Andrew X. Phạm,  Au Thị Phục An,  Bà Bút Trà,  Bà Tùng Long,  Bắc Phong,  Bàng Bá Lân,  Bảo Vân,  Bích Huyền,  Bích Khê,  Bình Nguyên Lộc,  Bùi Bảo Trúc,  Bùi Bích Hà,  Bùi Giáng,  

       

  2. © Hoc Xá 2002

    © Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@gmail.com)