24-08-2013 | VĂN HỌC
Bài Thơ Tây Tiến (Quang Dũng)
 Quang Dũng (1965) Nguồn: Khởi Hành 201 tháng 7.13
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng làm
năm 1948, một năm sau khi Trung đoàn Thủ
đô, hay Trung đoàn Thăng Long, trong đó thi
sĩ tác giả là một thành viên, rút khỏi Hà Nội.
Ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp
bùng nổ từ Hà Nội, là ngày 19 tháng
12.1946, giữa 8000 thanh niên sinh viên trí
thức "Tự Vệ Thành," (không có đơn vị bộ đội
Việt Minh nào), 1 và 4500 quân Pháp, là
trận đánh của những trí thức yêu nước của
Thủ đô chống lại sự trở lại của thực dân
Pháp, do bản ký kết của ông Hồ với Pháp
ngày 6 tháng 3.1946, gọi là Hiệp định Sơ
bộ. Theo Hlệp-định này, Chính phủ Liên
hiệp Quốc gia đồng ý cho Pháp thay quân
Tàu như là đại diện Đồng Minh, vào Bắc Việt
Nam tới vĩ tuyến 16 giải giới quân Nhật. Sự
việc xảy ra một mặt là do Pháp vận động để
được trở lại tiếp tục đô hộ Việt Nam, và mặt
khác, do ông Hồ muốn nắm giữ quyền hành
để có tiêu diệt các đảng phái quốc gia yêu
nước. 2
Quang Dũng là anh của bốn cô em gái, một
em trai, trong có một em gái và một em trai
vào Nam năm chia cắt đất nước 1954, cùng
bà mẹ. Người cha, cụ Tú Khuê còn là chánh
tổng, dân làng gọi là cụ Tổng. Thuở niên
thiếu ra trường thay vì đi dạy học, Quang
Dũng lại đi làm xếp ga ở nhà ga Yên Bái, và
chính trong thời gian này ông gia nhập Quốc
Dân Đảng, khiến Pháp đã về tận làng Phùng
tìm bắt ông, song không kết quả.
Trong thời gian ấy, các thanh niên hoạt
động hội kín thường được tiếp tế bởi các bạn
hữu đồng chí hướng, một trong những người
bạn đó là Bùi Thị Thạch, sau này là vợ thi sĩ.
Đầu thập niên '40, các thành viên QDĐ bị
lùng bắt giữ, Quang Dũng chạy qua Tầu.
Được QDĐ Trung Hoa hỗ trợ, thanh niên
Bụi Đình Diễm vào học quân sự tại Trường
Quân Sự của QDĐ, sau được bổ làm Doanh
trưởng Phủ Khai Phóng, tỉnh Vân Nam. Năm
1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân
Tưởng Giới Thạch được Đồng Minh ủy thác
từ Trung Hoa vào Bắc Việt Nam tước khí giới
quân Nhật. Trong các nhà cách mạng Việt
Nam ở Tầu theo Tướng Lư Hán vào Hà Nội
có cụ Nguyễn Hải Thần, và thanh niên Bùi
Đình Diệm. Theo tài liệu của một bạn thân
của Quang Dũng, thì "Quang Dũng trở thành
Ủy viên Quân sự đầu tiên tại Bắc Bộ Phủ, sĩ
quan liên lạc với quân đội Trong Hoa." (3)
Trận đánh tại Hà Nội bất quân xứng, vì
Tự Vệ Thành chi có súng nhỏ, đa số là gậy
gộc, dáo mác, trong khi quân Pháp có súng
liên thanh, và dùng đến cả xe tăng, hạ ngang
nòng súng bắn thẳng vào đám thanh niên,
sinh viên trí thức yêu nước. Xin nhắc lại, Bộ
đội Việt Minh đã nhận được lệnh của Võ
Nguyên Giáp rút khỏi Hà Nội 2 ngày trước
khi có lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. 1
Chưa tới hai tháng, đầu năm 1947, Thanh
niên Tự Vệ Thành phải rút khỏi thủ đô, một
số chạy qua Tầu lưu vong, một số biến thành
binh sĩ dự chiến dịch Tây Tiến, gọi là Trung
đoàn Thủ đô, trong có Quang Dũng; ngoài ra
để lại trên đất Hà thành 1300 tử sĩ, vừa chết
vừa mất tích, và 2500 người bị thương.(4)
Bài Tây Tiến của Quang Dũng được thi sĩ
viết vào sổ tay, và được anh em chiến hữu
lưu truyền rần rần trong Trung đoàn, bằng
cách chép lại. Bài thơ rõ ràng không chỉ là
tâm sự một thành viên của Trung đoàn, mà
là tâm sự của hầu hết trí thức trẻ đã tham
gia cách mạng chống Pháp, phải bỏ thủ đô
yêu dấu cua Đất Nước, của mình, mà đi. Tây
Tiến trở thành bài thơ bất hủ của những
người cầm súng chống Pháp, suốt từ 1946 tới
1954 chia cắt, và cho khắp Việt Nam từ vĩ
tuyến 17 trở xuống Cà Mau, vì nó bị cấm ở
Miền Bắc, tác giả bị giải ngũ ngay từ tháng
7.1951 do quá khứ Quốc Dân Đảng; và sau
đó vì tham gia Nhân Văn - Giai Phẩm, bị tù
và bị cấm viết.
TÂY TIẾN
 Thủ bút Quang Dũng
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửt trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Phù Lưu Chanh, 1948
Quang Dũng phải sống bằng nghề sửa bản
in cho báo Văn Nghệ. Thơ ông được in ra,
được đọc, được ngâm và phổ nhạc tại Miền
Nam từ sau 1954, nhưng mãi năm 1986, bài
Tây Tiến mới được in ra ớ Hà Nôi cùng các
bài khác trong thi phẩm Mây Đầu Ô, hai
năm trước khi ông từ trần. Lúc tập thơ mang
về, thi sĩ nằm trên giường bệnh, không còn
đủ sức cầm cây bút lên để ký tặng bạn hữu.
Đọc Tây Tiến, người đọc sẽ thấy tâm hồn
thanh niên Hà Nội tha thiết và khắc khoải
trong từng câu thơ. Song đời sống của các
nhân vật trong bài thơ không phải là đời
sống của Hà Nội, mà là của những người Hà
Nội ở chiến trường Tây Bắc, và núi rừng Tây
Bắc, những người bỏ Hà Nội đi chiến đấu
trên núi rừng, mà bên kia biên giới là Vientiane,
thuộc Lào. Tới khi bỏ Tây Bắc, thi sĩ
mới nhớ Chiến dịch Tây Tiến, mới nhớ núi
rừng, sương mù, mới nhớ bản mường và đoàn
quân mỏi, làm bài thơ nhan đề "Nhớ Tây Tiến."
Nỗi nhớ này được con trai thi sĩ là Quang
Vinh kể lại với một nhà báo, nhà báo này
viết lại như sau: "Nhiều lần, ông thấy cha
mình ngồi rất lâu trước một cuốn sổ tay băn
khoăn về cái tít vỏn vẹn có 3 chữ ấy. Có lẽ
Tây Tiến là kỷ niệm đáng nhớ nhất trong
cuộc đời binh nghiệp của Quang Dũng nên
bài thơ thấm đẫm linh hồn đoàn quân hào
hoa ngày nào, ông luôn luôn muốn có một sự
chín chu đến từng câu chữ. Cuối cùng Quang
Dũng lấy bút bỏ đi chữ "Nhớ."
Dù còn nhỏ, nhưng ông Vĩnh cũng buột
miệng hỏi sau thi thấy cha "bóp trán" hàng
năm trời ma chỉ sửa được vỏn vẹn duy nhất
một chữ. "Chữ 'Nhớ' đâu có ảnh hưởng nhiều
đến vần điệu bài thơ sao bố nghĩ gì mà lâu
thế?" Quang Dũng chỉ cười mà rằng: "Tây Tiến,
nhắc đến là đã thấy nỗi nhớ rồi. Thế nên để chữ 'nhớ'
là thừa. Không cần thiết nữa con trai ạ." (3)
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Bước chân thi sĩ đã qua Sông Mã rồi, thi
sĩ đang hướng về miền xuôi. Châu thổ người
kinh nằm giữa Sông Hồng, Sông Mã; thi sĩ
xa sông Mã là đang hướng về bản thổ cũ.
Đang rời xa chiến trường rừng núi mà đã
nhớ rồi. Đoạn thơ bốn câu trên, cũng như
toàn bài thơ, qua bản viết tay của Quang
Dũng, không hề có một dấu phẩy, không hề
có một dấu chấm.
Nhớ Sài Khao sương mù, nhớ Mường Lát
mù sương. Và nhớ những cuộc hành quân
súng vác vai vượt một ngàn thước lên cao gần
trời, đến nỗi mũi súng như chạm mây, thức
dậy, ngửi được hương boa thiên tải, và lúc
xuống đáy thung lũng, thấy Fa Luông như
chìm trong biển mưa bàng bạc xa xa.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Fa luông mưa xa khơi.
Chữ Fa luông tác giả viết Fa, nhưng đã tẩy
đi, viết chữ Pha bên trên, còn chữ luông
không lên hoa. Bước chân rời Tây Tiến xa
hơn, tác giả nhớ đến người bạn đã vĩnh viễn
nằm lại Tây Tiến.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên dời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Anh không chết, anh chỉ không đi nữa,
nằm lên hành trang và vũ khí, quên đi cuộc
đời này. Tiếng thác ầm ầm của sơn lâm cũng
là oai linh của hồn chiến sĩ. Tác giả tuy thế
cũng nhớ đến con cọp thành tinh từng hiện
về phá phách thôn bản trong vùng.
Trong một lần hành quân, đại đội của Đại
úy Bùi Đình Diệm tới Mường Hịch, không xa
Sông Mã. Người dân kể trong vùng có một
con cọp đã thanh tinh, thường lẻn vào thôn
bản vồ người mang đi mất xác; họ nhờ ông
Đại đội trưỏng có súng, hạ nó cứu mạng cho
dân trong bản. Quang Dũng, hào kiệt thời
kháng chiến, cao lm73, cho trói một con lợn
làm mồi, đêm ấy nằm chờ ác thú. Dân bản
còn nhớ, đêm nghe mấy tiếng súng nổ, sáng
ra thấy Đại úy và mấy binh sĩ hạ cọp vui vẻ
trở về. Nhưng vì nó là hổ thành tinh, đã
chống trả mãnh liệt, Quang Dũng phải bắn
nhiều phát mới kết liễu được nó. (5)
Còn ở Mai Châu là những kỷ niệm khác,
êm đềm hơn.
 Khởi Hành số 201, Tháng 7. 2013
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Trai Hà Nội, người trung châu, lớn lên
giữa Sông Hồng Sông Mã, đói ăn cơm gạo
tám, lúa chiêm lúa mùa; yêu người vóc ngọc,
thân ngà, giữa rừng thiêng nước độc sốt rét
ngã nước không một viên kí ninh, tóc rụng
đến trọc đầu, nhưng nghĩ đến giặc xâm lăng
biên giới thì mắt trừng nẩy lửa, trong đêm
hội ở doanh trại cao nguyên còn mơ mòng
chuyện yêu đương cũng rất mơ mòng diễm
tuyệt ở kinh thành:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn ai nẻo bến bờ
Có nhớ bóng người trên độc mộc
Trôi giòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm
Trong ba đoạn thơ trên, chữ Viên-chăn
mới đầu viết là Viên chiên, sau tác giả sửa
lại. Chữ giòng viết giòng, gi. Chữ Kiều, viết
chữ K hoa. Hai khúc thơ cuối cùng của bài
Tây Tiến, khúc trên dành cho người ở lại,
những tử sĩ chôn vùi không có đến một manh
chiếu quấn quanh thi thể (áo bào thay chiếu);
họ dâng hiến tuổi trẻ cho chiến tranh, khóc
họ chỉ có tiếng ầm ì, tiếng gầm thét của
giòng Sông Mã. Khúc dưới dành cho những
người đã chiến đấu ở Tây Tiến "mùa xuân
ấy:", 1947; đã xa Tây Tiến trở về miền xuôi,
nhưng lòng không về, lòng ỏ lại với núi rừng
xưa, chiến hữu cũ:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Trong 9 năm thơ kháng chiến, bài Tây
Tiến nổi trội vượt bực, và không một chữ nào
nói đến lãnh tụ, nói đến lòng yêu nước,
nhưng lòng yêu nước chan hờa trong từng
câu, từng chữ và tình yêu thắm thiết trong
đó là tình bạn hữu, tình yêu thiên nhiên,
sông núi, và tình mộng cúa những chàng trai
một thế hệ: thế hệ thanh niên chống Pháp
xâm lược, "chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh," làm nhiệm vụ thanh niên một cách
thanh thản, tự nbiên, như tự ý thức nhiệm
vụ phải thế, và lên đường.
Westminster, ngày lễ Thanksgiving, 2011.
Viên Linh
Khởi Hành số 201, tháng 7.2013

1. Ngô Văn Chiêu, bộ đội, viết trong Hồi ký:
"... quân đội chính qui được lệnh rút khỏi Hà Nội từ
ngày 25 tháng 11, (1946)" theo Việt Sử Khảo Luận
của Hoàng Cơ Thụy, trang 2136. Cũng sách này, cuối
trang, theo tướng Vương Thừa Vũ: "Ngày 17.12, tiểu
đoàn cuối cùng của Vệ Quốc Đoàn rút khỏi thành phố,
lui về Bạch Mai." Như thế, khi cuộc nổ súng bắt đầu,
ngày 19.12, bảo vệ Hà Nội chỉ có thanh niên sinh viên
Hà Nội, không có đơn vị chính qui nào.
2. Hoàng Cơ Thụy (2002): Việt Sử Khảo Luận,
Nam Á, Paris. Xem thêm "Dương Quảng Hàm, mùa
đông 1946," Viên Linh, Khởi Hành 110, 12.2005.
3. Lê Khải Trạch (1974): trong thư gửi Viên Linh,
Thời Tập số 20, 2.1975.
4. Viên Linh "Dương Quảng Hàm, mùa đông
1946," Khởi Hành 110, tháng 12.2005.
5. Lâm Bình (2008): "Những câu chuyện phía sau
bài thơ Tây Tiến," VnExpress.Net.
|